Hằng năm tại Thụy Sĩ nói riêng, Âu Châu nói chung, nhằm vào lễ Phục Sinh được nghỉ 4 ngày liên tiếp từ thứ 6 đến thứ 2, thiên hạ thường nô nức mua sắm, du lịch hay tiệc tùng ăn nhậu..v.v..và..v.v.. để đền bù và thưởng thức cuộc sống cho bõ những ngày tháng làm việc mệt nhọc mà họ cho là “đi cày” vất vả. Thế mà những ngày này, có một nhóm trẻ, xa lánh cái dục thường tình của thế gian tìm niềm vui tinh thần tận mãi núi cao để gột rửa tâm hồn, đánh bóng lại thân tâm ngày một cho mới lại. Chẳng những thế, anh em trong nhóm không chỉ “tu” cho mình mà còn thực hiện “Bồ Tát Hạnh” giúp người khác cùng…tu, do đó cả nhóm, không chỉ vất vả 4 ngày mà từ một ngày trước đó hay cả năm trước đó chuẩn bị, nào là lo tìm địa điểm, nào mời giảng sư, thiết kế bàn Phật, tìm người nấu ăn, phổ biến rộng rãi chương trình đến người đồng chí hướng “có duyên với Phật” tụ về huân tu hẹn cùng nhau sau này gặp nhau ở cõi Tịnh Độ.
Họ là ai mà đặc biệt thế, đó là lực lượng anh em Gia Đình Phật Tử (GĐPT) Thiện Trí tại Thụy Sĩ. Từ lâu, nhóm tụ hội lớn nhỏ có tới 46 người như những trẻ “mồ côi” không nơi nương tựa (không có chùa), không ai hướng dẫn (không có bổn sư) thế nhưng với tinh thần đoàn kết, họ tự biết dựa vào nhau, vào bản thân chính mình thành lập khóa tu để tạo điều kiện cho người khác dựa lại họ nữa. Ôi, mạnh mẽ và đáng khen quá chừng chừng!
Khóa tu kỳ này là khóa thứ 6. Sáu năm miệt mài! Thời gian chưa kể là nhiều nhưng không phải là ít để nói lên tinh thần vì đạo của anh em.
Ngôi nhà tổ chức khóa tu xa lánh phố hội, nằm trên ngọn núi cao yên tĩnh tại Wildhaus gần thành phố St.Gallen. Thời tiết vào Xuân mát mẻ, mở đầu cho một sự bừng sống sau những tháng ngày ảm đạm hiu hắt của mùa Đông. Nắng bung ra, rực sáng, soi rõ một màu xanh ngan ngát.
Con đường dẫn lên núi ngoằn ngoèo quanh co. Hai bên đường vắng vẻ, lác đác ẩn hiện một số ít nhà rải trên ngọn đồi thấp. Những hàng cây thông thẳng đứng cao vút thách thức với nắng mưa, thi gan cùng tuế nguyệt vẽ trên bầu trời một màu xanh đậm hài hoà với “tấm thảm” cỏ non xanh biếc trải khắp đất nước Thụy Sĩ. Thế nhưng, vào mùa này khi vô thường gõ cửa, thời tiết cũng đổi nhanh, mới xanh đó cũng có thể trắng xoá sau một đêm tuyết rơi. Tuyết rơi như rải muối phủ khắp mái nhà, khắp hàng cây, trên thảm cỏ…rồi nắng đến tuyết tan, trả lại màu xanh cố hữu khi đất trời thay đổi chỉ trong một khoảnh khắc.
Có điều, dù nắng dù mưa dù tuyết, bất kể, nhưng với lòng quyết tâm cầu đạo, mọi người vẫn thu xếp thời gian, công việc nhà, bỏ qua những thú vui thường tình để tụ về, quây quần bên nhau sống nếp sống đạo, tìm thấy cõi tịnh độ, an lạc ngay trong cõi đời này.
Giảng sư được mời đến khóa thứ 6 này với sự hiện diện của Sư Bà Thích Nữ Như Tuấn trụ trì chùa Phổ Hiền, Pháp quốc; Hoà Thượng Thích Thiện Huệ cũng đến từ Pháp quốc; riêng Đại đức Thích Hạnh Tuệ đến từ chùa Phật Đà, Hoa Kỳ.
Sư bà đã 83 tuổi, sức khỏe tốt và tướng hảo sáng ngời. Những trải nghiệm về công trình tu luyện, cho Sư bà có trí nhớ tốt. Sư bà đã truyền đạt lại “bí quyết” cho Phật tử, chỉ đơn giản bằng phương pháp niệm Phật, tu trì học Phật để ra ngoài vô ngã, quên mình, xả bớt cái tôi đi. Sư bà còn nhấn mạnh, nếu thường xuyên liên tục niệm Phật sẽ thâm nhập thành thói quen nhiếp tâm bất loạn thì vọng tưởng sẽ giảm xuống, là phương tiện ngăn dòng nước phiền não. Ngoài tụng kinh, niệm chú, Phật tử còn giữ giới nữa thì chắc chắn cực lạc không tìm ở đâu xa mà hiện hữu ngay cõi đời này. Riêng tụng Chú Đại Bi, Sư bà cho rằng nếu tụng 108 biến trong một ngày, khi vãng sanh sẽ về cõi cực lạc ở tầng cao nhất Thượng phẩm Thượng sanh. Tụng ít thì sẽ về tầng Hạ Phẩm Hạ sanh mà thôi.
Cùng với Sư bà, Hoà thượng Thiện Huệ 63 tuổi, sau hai lần mổ tim nhờ Phật độ vẫn khỏe mạnh như thường, đã đến khóa tu khuyên Phật tử nên thực hiện thêm “Bồ Tát Đạo”.
Bồ Tát Đạo là pháp môn pháp hành của Đại thừa (đại là lớn, thừa là cổ xe: Cổ xe lớn) để chuyên chở chúng sinh đến bờ giác ngộ. Với tinh thần đó, người Phật tử ngoài tụng kinh, giữ giới, còn phải biết dấn thân đưa người khác sang sông, sang bờ giải thoát. Nhưng trước nhất, muốn cứu người chết đuối thì mình phải biết bơi. Nghĩa là, mình phải phát tâm làm gương tự soi rọi chính mình, tri vọng, nhận ra nó để trừ vọng tâm, diệt khổ tạo cho mình một cảnh giới an bình rồi mới mong độ người.
Hòa thượng cho rằng, mỗi người trong chúng ta mang vào đời đều có hai cảnh giới: Điạ ngục và Niết bàn, tự ta có thể lựa chọn chúng. Khổ không ai muốn nhưng sao lại nhiều thế. Lạc ai cũng mong mà sao lại hiếm hoi. Chẳng qua là do mê muội, vô minh. Ghét khổ mà ta cứ tạo khổ. Vậy nên phát bồ đề tâm, hành bồ tát đạo “thế thế thường hành Bồ Tát Đạo” (kinh Phật đã dạy thế) quyết diệt khổ, thì khổ sẽ tiêu tan.
Một câu chuyện kể rằng: Có một người lính đến hỏi một vị Thiền sư.Thế nào là Niết bàn và thế nào là địa ngục? Thay cho câu trả lời, vị thiền sư mắng, anh hỏi…dzô dziên, giống như một thằng điên! Bỗng dưng bị mắng bất ngờ, người lính tức giận tuốt kiếm ra! Thiền sư nói, đó là địa ngục đấy. Khi hiểu sâu xa cách trả lời của Thiền sư, anh lính mỉm cười hài lòng cho kiếm vào vỏ. Thiền sư cười, anh đã tìm thấy Niết bàn rồi.
Vậy đó, phát bồ đề tâm thì, khổ phải biết, tập phải trừ, đạo phải tu, diệt phải chứng. Có nguyện trừ phiền não thì trí huệ mới phát sanh, tội chướng tất tiêu trừ, mới…thế thế thường hành Bồ Tát Đạo.
Ngoài ra, phát bồ đề tâm, người Phật tử còn biết tạo công đức, bố thí, cúng dường và…nhất thiết cứu độ chúng sanh. Dưới mắt Phật giáo, người Phật tử không mang tâm phân biệt, không có biên giới hay chủng tộc mà chỉ biết chúng sanh. Chúng sanh không chỉ là con người mà cả trâu, bò, chó, lợn, chim, chuột…v.v... Qua đó, nếu cứu được thì cứ cứu để thể hiện lòng từ bi. Và phong trào phóng sanh trong Phật giáo bắt nguồn từ thế kỷ thứ 6 do Đại sư Trí Giả, bậc trí tuệ thời đại nhà Tùy bên Trung quốc và là quốc sư của một hôn quân, cho đến bây giờ cũng không ngoài mục đích thực hiện Bồ Tát Hạnh. Những con cá được trở về với sông hồ biển cả, những con chim được ra khỏi lồng tung bay giữa bầu trời bao la, còn trâu, bò, gà, vịt…thì cứu làm sao, chúng ta phát tâm ăn chay, không ăn thịt chúng tức là phóng sanh chúng vậy!
Chúng ta được làm thân người, lại có duyên với Phật, trong tinh thần Bồ Tát Đạo nhất thiết cứu độ chúng sanh thì việc phóng sanh kèm niệm một vài câu chú theo tinh thần Phật giáo tức là phát tâm gieo duyên Phật pháp đến loài súc sanh để tiếp dẫn chuyển hoá chúng từ cảnh giới đọa đày sang cảnh giới khác tốt hơn mà vốn dĩ chúng khó có nhân duyên phước báu được trở lại thân người, cũng như Phật A Di Đà dang tay tiếp dẫn sau khi chúng ta xả báo thân về cõi Tịnh Độ của ngài vậy.
Thực hiện Bồ Tát Đạo còn mang ý nghĩa tạo công đức để đời đời được phước báu không chỉ cho đời này mà còn cho kiếp sau để nhận nhân quả. Do vậy mà có người mới sinh ra đã lọt vào cảnh giới giàu sang, con ông hoàng bà chúa, trong khi lắm kẻ đầu tắt mặt tối làm việc cật lực mà vẫn thiếu ăn. Tất cả đều do phúc đức vậy.
Thế thì phúc đức và công đức giống và khác nhau như thế nào?
Công đức là do tự tính, vượt vô ngã mang tâm Phật, tâm Bồ tát đem lợi lạc an lành cho vô số người khác cùng hưởng như mình. Chẳng hạn như hành động của anh em GĐPT Thiện Trí tổ chức khóa tu.
Phúc đức do mình có được từ bao đời giờ được hưởng và hưởng chỉ mình mình. Như anh, chị ca sĩ nào đó “Trời” phú cho có giọng ca hay, anh chị tha hồ hốt bạc, tha hồ mua sắm và có quyền hưởng thụ theo mong ước của mình.
Hiểu công đức và phúc đức như thế, theo cái hiểu của…à la Nhật Hưng thì ta cứ tạo công đức để nhận được phúc đức.
Một tăng sĩ nữa trong khóa học được Phật tử quan tâm chú ý nhờ tuổi trẻ mà tài cao đó là Đại Đức Thích Hạnh Tuệ.
Thầy Hạnh Tuệ đi tu từ hồi 10 tuổi, nay tuổi đời tròn đúng 35. Cái tuổi chín mùi, lý tưởng mà ngoài đời đúng ra giờ này đang dung dẻ đưa vợ con du hí, hoặc cùng người đẹp bát phố, la cà các quán cà phê, phòng trà, nghe nhạc du dương hay ăn nhậu, thế nhưng giờ này, Thầy lại hiện diện trong khóa học để…không chỉ kề vai sát cánh cùng các anh em GĐPT khuân khiêng dọn dẹp, viết thư pháp cho mọi người, giảng giải chăm lo các em Oanh vũ mà còn có tri thức thật tuyệt vời để hướng dẫn tâm linh cho Phật tử. Ôi, đáng nể và mừng cho “mầm non” của Phật giáo làm sao!
Thầy Hạnh Tuệ “trụ trì” toàn bộ khóa học, từ đầu khóa đến cuối khóa, chia sẻ đủ mọi chuyện, từ các buổi công phu khuya, tụng kinh, thiền tập, giảng pháp, chăm lo Oanh vũ và cả dọn dẹp nữa. Trong buổi khai giảng, Thầy “mở màn chương trình” qua mục “khai thị” với đề tài “Phật giáo, khoa Học và tuổi trẻ” một đề tài nóng bỏng không chỉ tuổi trẻ mà cả tuổi già cũng khao khát muốn nghe, muốn biết.
Nói đến khoa học, không ai phủ nhận khoa học đã chứng minh làm sáng tỏ những ý niệm của Phật giáo về những điều mà đức Phật từng nói ra cách đây hơn 2500 năm để thấy tính chất hợp lý của giáo pháp nhà Phật phù hợp với khoa học khi khoa học khám phá ra một hành tinh giống trái đất nằm ngoài hệ mặt trời được mang tên là M1. Điều đó đã giúp Phật giáo thăng hoa tạo niềm tin và ảnh hưởng rất tốt không chỉ cho Phật tử Á Châu bấy lâu mà với người phương Tây đang tìm hiểu Phật giáo. Hiểu, tin rồi theo không cần phải tuyên truyền như các tôn giáo khác! Nhà bác học Einstein
cũng từng khẳng định: “Nếu có một tôn giáo thích hợp với khoa học, chính là Phật giáo. Khoa học mà thiếu tôn giáo thì khập khiễng. Tôn giáo mà không hợp với khoa học thì mù quáng”
Một câu chuyện Thầy Hạnh Tuệ kể, có con rùa đi du lịch, bò lên khỏi mặt nước, nó khám phá ngoài thế giới nước mà nó từng sống, không ngờ có một thế giới khác, nơi đó vô cùng tươi đẹp, đầy cỏ, cây, hoa, lá, ong, bướm, chuồn chuồn và cả mây bay gió thoảng…v.v...Rùa trở về kể cho cá nghe, cá bĩu môi, nghĩ: “Anh rùa này dốc tổ, đi chơi về dợt le “nổ”,“chảnh”, khoác lác chứ làm sao có thế giới nào khác ngoài thế giới nước mà mình đang sống”. Qua đó, chúng ta cũng vậy, cũng như cá, không bao giờ hình dung và tưởng tượng nổi ngoài cõi dục của chúng ta còn vô số thế giới như lời Phật nói. Nhưng là Phật tử, đương nhiên chúng ta tin Phật và tin có cõi Tịnh Độ để chúng ta nỗ lực tu tập. Và hôm nay tụ hội về đạo tràng không ngoài mục đích mong muốn sau này về cảnh giới khác ngoài cảnh giới đau khổ hiện tại.
Trong khóa học, Thầy Hạnh Tuệ còn giảng về duyên sinh và vô ngã. Thầy cho rằng, tất cả mọi sự vật và hiện tượng trên cõi đời này đều liên hệ nhau bằng một lực vô hình nào đó, mà bản thân sự thành là do kết hợp từ trùng trùng duyên khởi, không có cái mở đầu và cũng không có kết cuộc.Tất cả tự nó sinh ra và mất đi, hễ duyên sinh thì vô ngã. Cái này có thì cái khác có. Nó luôn đến từ hai mặt trái nhau của cuộc đời. Có hạnh phúc thì có khổ đau, có trắng thì có đen, có cười thì có khóc, có sinh thì có diệt…v.v..và..v…v…như một định luật hiển nhiên, hiển nhiên như chấp nhận một điều, ai cuối cùng đều cũng chết để đừng sợ hãi,lo lắng. Và đặc biệt nữa nếu đã biết, ai rồi cũng chết, thì khi giận hờn căm thù ai đến độ muốn…giết nó cho hả giận thì kíp ngưng tay (nếu cần xuống ngay một câu vọng cổ: “Khoan, xin ai ơi hãy ngừng tay…dao, tay súng lại. Con ranh thằng nhãi này trước sau gì cũng chết, đừng giết nó làm chi để mang tội sát sanh vô... a…à…người!”) Rứa đó, không nhọc công phải ra tay để phải ngồi tù, khổ thân. Đó chưa kể đối với Phật tử thọ 5 giới, nếu phạm giới giết người, kiếp sau còn bị đoạ xuống địa ngục hay làm súc sanh nữa.
Giữa khóa học bao giờ cũng có mục “Phật pháp vấn đáp” vô cùng sôi nổi, thân thiện. Vừa ăn bánh, uống trà, vừa luận bàn Phật pháp. Riêng tôi “ăn ý” nhất câu hỏi rất thực tế, thường tình của ai đó (câu hỏi còn “bị chú” đặc biệt dành cho Thầy Hạnh Tuệ): “Thầy còn trẻ, thuyết giảng hay, lại…xinh trai; trên đường tu thế nào cũng gặp Thị Mầu hay Ma Đăng Già, Thầy sẽ đối phó làm sao?” Mọi người cười xòa, trong khi Thầy Hạnh Tuệ…bẽn lẽn mỉm cười, Ma Đăng Già - cô gái yêu sư thời Đức Phật, từng làm ngài A Nan điên đảo - không sợ, chỉ sợ Ma Đăng...Trẻ thôi. Các…trẻ này đôi khi làm Thầy vấn vương, vẩn vơ đôi chút (Tăng Ni cũng có trái tim yêu thương nồng nàn chứ bộ!) nhưng lời phát nguyện xuất gia năm nào với sư phụ “Dâng đời cho Phật” trong ngày xuống tóc không thể để thời gian, hay mấy cô Thị Mầu, Ma Đăng…Trẻ làm phôi phai, phụ bạc tấm lòng mong đợi của Phật tử và nhất là đối với sư phụ, người thuở ban sơ hết dạ yêu thương chăm sóc dìu dắt mình.
Như ong chỉ lấy mật thôi.
Không làm hại sắc hư đài của hoa.
Tỳ kheo theo luật nương kinh.
Vào trong nhân thế trung trinh lời nguyền.
Để rồi “bất vi bổn thệ” (không quên lời nguyện xưa), trung trinh lời nguyền đã giúp Thầy…tóm hết mấy cô “vớ vẩn” từng làm Thầy...“vẩn vơ” quăng ra khỏi tâm trí! Hà…hà…phải vậy chứ, nhờ thế, tăng sĩ mới vững chãi thăng tiến trên đường tu, đi trọn một cách thật ngon lành con đường đạo của mình trong bóng dáng của Phật, của Pháp, của Tăng mà mình từng thệ nguyện, không nửa đường…gãy gánh, và qua đó đạo Phật mới trường tồn và phát triển!
Bên cạnh “Phật pháp vấn đáp”, hôm sau, còn có chương trình kỷ niệm chu niên của GĐPT Thiện Trí và văn nghệ hội tụ nam, nữ nghệ sĩ “cây nhà lá vườn” cũng sôi nổi không kém. Những màn kịch câm, kịch nói cười bể bụng. Múa, hát thật dễ thương, thật vững chãi chứng tỏ tiềm năng các...nghệ sĩ còn tiến xa. Có một em Oanh vũ 7 tuổi, áo dài chỉnh tề, giọng ca rất hay, dạn dĩ bước ra “sân khấu”. Trước khi hát, em đưa mắt về hướng chánh điện, phía nơi Chư Tăng-Ni đang ngồi, tưởng em chào quí Thầy, Cô, em lại nhìn lên ban thờ cất tiếng: “Con xin chào ông Phật” làm mọi người cười xòa trước vẻ ngây thơ thánh thiện với hình bóng Phật đầy ắp trong tâm tưởng em.
Khóa học kết thúc vào trưa thứ 2, sau 4 ngày quây quần bên nhau chuyên cần học đạo, sống nếp sống đạo. Trong tâm hồn của cả thảy 80 người vừa Tăng-Ni Phật tử, ai nấy lâng lâng những cảm giác khó tả lẫn lộn niềm vui và phảng phất chút se buồn khi phải chia tay. Những lời hẹn hò năm tới râm ran ngày gặp lại. Có hợp thì có tan. Tan rồi lại hợp. Đó là hiện tượng hiển nhiên dù muốn hay không thản nhiên chấp nhận.
Xin nguyện Phật Trời gia bị cho anh em GĐPT Thiện Trí Thụy sĩ nói riêng và toàn thể anh em GĐPT khắp năm châu nói chung chân cứng đá mềm, Bồ Đề Tâm kiên cố trong tinh thần thực hiện Bồ Tát Đạo, mãi mãi là những viên ngọc quí sáng ngời hoà nhập trong hào quang của đấng Thế Tôn và là đầm sen ngát hương nở rộ khắp nơi nơi tô điểm cho vườn hoa Phật giáo trường tồn vĩnh cửu.
Con cũng kính nguyện Chư Tôn Đức Tăng Ni dồi dào sức khoẻ để dìu dắt chúng sinh đến bờ giác ngộ.
Riêng Quí Phật tử tinh tấn trên con đường tu tập.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Trần Thị Nhật Hưng
Thụy Sĩ mùa Phục Sinh 2014
Hình ảnh Khóa tu
Khóa tu những ngày cuối