BỘ MẬT TÔNG (Bốn Tập)
Dịch Giả: Tỳ Khưu Thích Viên Đức
PHƯƠNG PHÁP TU TỊNH TỌA
THIÊN II
TỊNH TỌA CÔNG PHU THEO THỨ LỚP TẬP LUYỆN
A. ĐIỀU HÒA ĂN UỐNG:
Dạy rõ: Trước khi muốn thực hành tịnh tọa cần phải điều hòa sự ăn uống cho hợp với tịnh tọa.
Luận về nhơn thân của người tựa hồ như cái máy, nên khi máy động tác, tất phải nhờ có dầu v.v… Thân người còn sống mỗi ngày phải nhờ sự ăn uống. Nên biết sự ăn uống để nuôi sống sanh mạng ta, nó là một vấn đề quan hệ trọng đại. Nhưng nếu sự ăn uống không tiết độ dễ hại bộ máy tiêu hóa ta, như ăn uống quá nhiều thì bộ máy tiêu hóa phải tăng gia công tác sẽ bị tổn thương đến sức khỏe của ta. Kết quả sự ăn uống quá no, làm cho hơi thở chướng đầy, khi ta tịnh tọa không an ổn được. Trái lại sự ăn uống quá ít không đủ dinh dưỡng thân thể làm cho thân thể bạc nhược, tư tưởng bàng hoàng.
Tóm lại, sự ăn uống phải đủ bổ dưỡng thân ta, như ăn vừa no. Cổ nhân có nói: “Thân thể nhiều dục thì lao, sự thực, dục phải thường ít, quá nhiều thì sanh bệnh”. Câu ấy thật có ý nhị thay! Lại sự ăn đừng dùng những vị quá nồng hậu (cao lương) nên dùng rau trái, chất nhẹ dễ tiêu mà đủ chất bổ (rau đậu) thì tốt hơn hết.
Nên nhớ, khi ăn no không nên tịnh tọa, thông thường sau khi ăn rồi hai tiếng đồng hồ mới có thể vào ngồi. Tảng sáng thức dậy súc miệng, chỉ uống nước, khi bụng trống ngồi tịnh tọa rất hợp vậy.
B. ĐIỀU HÒA NGỦ NGHỈ:
Chúng ta mệt nhọc tâm và lực, sau khi làm việc gì tất nhiên phải có thì giờ để nghỉ cho lại sức khỏe. Ngủ, đây là thời giờ nghỉ trong một ngày đêm (24 giờ). Thường nhơn nghỉ trong ngày đêm phải đủ tám giờ làm chừng. Nếu quá nhiều thì tinh thần bị hôn muội, tập tu tịnh tọa không hợp nghi. Trái lại, nếu thiếu tám giờ, tâm thần, thân thể không khỏe. Sự tu tập tịnh tọa không thành. Sở dĩ nên ngủ nghỉ phải có giờ và tiết độ, cốt để cho tinh thần sáng suốt mới có thể tu tập tịnh tọa được.
Mỗi đêm trước khi đi ngủ ta nên tịnh tọa, hoặc nửa đêm sau khi tỉnh giấc, dậy tịnh tọa. Tịnh tọa xong, nếu ta cảm thấy chưa thẳng giấc ta nên ngủ lại. Tóm lại, ngủ nghỉ không nên quá nhiều và quá ít như trên đã chỉ.
C. ĐIỀU HÒA THÂN THỂ:
Sửa thân thể cho đoan chánh gọi là điều thân, có ba cách:
1) Trước khi chưa ngồi.
2) Khi đương tịnh tọa.gi
3)Và sau khi đã ngồi thiền đều phải chú ý luôn, thân thể ta động tác như: đi, đứng, nằm, ngồi, trong bốn oai nghi ấy. Những người tu tịnh tọa trong lúc bình thường đi, đứng, tới lui, phải an tịnh không nên cử động thô lỗ. Nếu cử động thô thì hơi thở ta cũng theo đó mà thành thô. Tâm lý ta bị xáo động khó tu tịnh tọa. Vì vậy nên trước khi chưa vào ngồi (tịnh tọa) cần phải giữ gìn thân thể cho điều hòa. Như vậy gọi là phương pháp điều hòa thân thể trước khi chưa vô tịnh tọa.
Giờ đây nói về khi vào tịnh tọa: Hoặc tại giường ta ngủ, hoặc là ta đặc biệt chế riêng một cái giường tọa thiền do tiện nghi nếu có thể.
Trước khi vô ngồi, ta nên vén sửa khăn áo, nới rộng dây lưng, dây nịt cho ngay thẳng, thung dung vào ngồi. Trước hết sắp đặt hai chân nếu ta muốn ngồi kiết già (tréo cả hai chân, cũng gọi song tọa) thì lấy bàn chân trái gát lên đùi bên phải. Kế đó kéo chân bên phải gát lên đùi bên trái, trong cho bàn chân lật trở lên. Lúc bấy giờ, hai đùi ta giao lại thành hình tam giác, hai bắt đùi bề dưới thẳng và sát dưới giường nệm, toàn thân ta căng thẳng tựa hồ cây cung giương, không nên nghiêng ngã bên tả bên hữu, phía trước hay phía sau, thực hành giống như vậy là đúng phương pháp.
Song cũng có hạng người tuổi tác, e rằng họ khó làm y như vậy nên cũng có thể cải dùng các ngồi. Ngồi bán già thì lấy chân bên trái co lại gát lên trên vế bên phải (không cần lấy chân bên phải gát lên chân bên trái nữa). Lại cũng có cách ngồi y như ta thường ngồi xếp bằng, để hai bàn chân xuống dưới (cách này ít công hiệu).
Kế đó ta đặt để hai bàn tay, lấy lưng bàn tay bên phải để chồng lên lòng bàn tay bên trái, kéo lại để gần bụng (dưới rún) đển trên cườm chân tả.
Nhiên hậu ta mới lúc lắc thân qua bên tả, bên hữu tám lần, rồi mới ngồi lại ngay thẳng. Xương sống đừng cong quẹo. Đầu và cổ phải thật ngay thẳng. Sửa cho lỗ mũi ngay rún thẳng như chỉ giăng, đừng cúi xuống cũng đừng ngước lên.
Xong rồi ta há miệng thổi hơi trong bụng ra. Thổi rồi ta co lưỡi sát lên trên ổ gà, do từ miệng mũi từ từ hít thân khí vào ba lần đến bảy lần. Xong rồi ta ngậm miệng lại, môi răng sát nhau, lưỡi vẫn co sát trên ổ gà y như cũ. Kế đó, nhắm hai mắt lại, thân ta ngồi cho ngay thẳng, y nguyên không động. Khi ta ngồi tịnh tọa lâu cảm thấy thân thể hay đầu cổ hơi cúi, ngước hoặc nghiêng vẹo, phải sửa chữa cho ngay thẳng lại. Như thế ấy là phương pháp điều hòa thân thể đương khi ta tịnh tọa.
Sau khi ngồi xong muốn dậy, ta phải há miệng thổi hơi trong miệng ra mười lần và để hơi nóng trong người ta tan ra ngoài hết ta mới từ từ cử động thân thể. Kế đó động hai vai, cổ, đầu và từ từ thả hai tay, ngay hai chân ra rồi kế lấy ngón tay cái xoa lại thật nóng, chà xát trên hai mí mắt của ta, nhiên hậu mới mở ra. Kế xoa vô hai đầu lỗ mũi. Lại lấy hai tay xoa cho thật nóng, xoa hai bên vành lỗ tai. Xong xoa lên đầu, bộ ngực, bụng, lưng, hai cánh tay, bắp đùi, cho đến lòng bàn chân.
Khi ta đương ngồi, huyết mạch lưu thông, thân thể nóng ra mồ hôi, ta nên chờ mồ hôi khô rồi mới cử động (đi ra). Đây là phương pháp điều hòa sau khi đã tịnh tọa xong.
D. ĐIỀU HÒA HƠI THỞ:
Hơi thở trong mũi ra vào gọi là hô hấp, thở ra gọi hô. Trong một hô hấp gọi là “nhất tức” Trong khi nhúng tay vào công việc tịnh tọa, trọng yếu là điều hòa hơi thở.
Trong việc hô hấp có bốn cách khác nhau:
1- Thở ở từ cuống họng: Thông thường những người không biết vệ sinh họ thở rất ngắn, chỉ từ đầu cuống phổi ra vào thôi. Họ không thể thở hết dung lượng của lá phổi. Bởi thế, không thở hết khí uế trong phổi ra ngoài nên huyết dịch tuần hoàn không thể tốt được.
2- Thở từ ngực ra vào: Đây so với cách thở trước có khá hơn, là khí thở ra vào thông đến bộ ngực, căng thẳng hai lá phổi. Những người tập thể thao hay vận động thì hơi thở ra vào chính ở trường hợp này. Nhưng trong hai cách thở này chưa phải là cách điều hòa hơi thở.
3- Thở ra vào đến bụng: Một hô, một hấp, khí thở thông đến bụng dưới, khi hít không khí vào phổi đẩy thẳng tới đáy phổi, thông đến xuống bụng phình ra. Lại khi thở không khí bụng thẳng hết, thông lên bộ phế, đẩy hết khí trong phổi ra ngoài. Cách thở này mới gọi là điều hòa hơi thởcủa người tu tịnh tọa.
Kẻ hành giả phải chú ý hô hấp cần thở nhẹ nhàng không nên dụng lực. Cốt yết hơi thở ra vào rất nhẹ và rất nhỏ, lần hồi sầu và dài, tự nhiên thông đến bụng dưới, mà chính tai mình cũng không nghe thấy tiếng hơi thở ra vào từ mũi. Như vậy mới gọi là cách điều hòa hơi thở.
4- Hô hấp: Là do công phu tịnh tọa lâu năm chầy tháng thì hô hấp rất sâu và nhỏ nhít. Một hơi thở ra vào mà chính mình cũng không hay biết. Chừng ấy trạng thái tốt đã chứng đến không còn thấy hô hấp nữa. Tuy là ta còn có khí quản hô hấp nhưng không dụng công nữa mà khí thể “hô hấp” phưởng phất ra vào khắp các lỗ lông ở toàn thân ta. Đến đây mới đạt đến chỗ kết quả điều hòa hơi thở.
Kẻ học giả khi bình nhật phải luôn chú ý: Hơi thở ra vào không nên thô cạn (thô tháo nông cạn) phải thở từ ngực, thông xuống bụng. Đây là phương pháp điều hòa hơi thở, dù trước khi chưa vào tịnh tọa cũng phải luôn luôn như thế.
Khi vào tịnh tọa, hơi thở không điều hòa, tâm không thể an định được. Sở dĩ như thế, nên luôn thở rất hưởn đãi và rất nhỏ nhẹ, dài ngắn cho đồng đều. Khi chưa thuần thục cũng phải đếm hơi thở trong lúc tịnh tọa.
Hoặc giả đếm hơi hít vào từ một đến mười rồi lại cũng từ một đến mười mà nếu khi đếm chưa đủ số mười, tâm ta nghĩ đến việc khác hoặc giữa chừng gián đoạn, ta phải bắt đầu từ một đếm lại cho đến mười, thay đổi tập luyện lâu ngày sẽ thuần thục (quen) tự nhiên mỗi mỗi hơi thở đều được điều hòa. Đấy là phương pháp dạy điều hòa hơi thở đương khi ngồi tịnh tọa.
Do điều hòa hơi thở nên huyết dịch lưu thông, châu thân ta ôn nhiệt, nên khi ngồi rồi phải há miệng thổi hơi trong miệng ra chờ thân thể ta sức nóng giảm hết, bình phục lại như thường khi ấy mới đi ra. Đây là phương pháp điều hòa hơi thở khi tịnh tọa xong.
E. ĐIỀU HÒA TÂM:chúng ta từ khi sanh ra đến giờ luôn sống theo vọng niệm, mỗi niệm sanh diệt không ngừng nên gọi là “tâm viên ý mã” (tâm như vượn, ý như con ngựa - chạy và chuyền không ngừng) rất khó điều phục nên công phu tịnh tọa là cứu cánh để điều phục vọng tâm. Chúng ta thường ngày trong bốn oai nghi, trừ ngoài khi chưa ngồi và chưa nằm thì đi và đứng ta phải luôn luôn kiểm điểm lại oai nghi này. Một lời nói, một hành động cần phải giữ gìn tâm ý, nếu để nó rông ruỗi theo ngoại cảnh sẽ bị loạn tâm. Như vậy lâu ngày tự nhiên điều phục dễ dàng. Như thế là phương pháp điều hòa tâm trước khi vô ngồi tịnh tọa.
GIỜ ĐÂY ĐẾN KHI VÔ TỊNH TỌA. Có hai thứ tâm trạng.
1. Tâm đã tán loạn duy trì không an định.
2. Tâm ta hôn trầm (tựa hồ ngủ gục, mê muội). Đại phàm kẻ sơ học tu tịnh tọa lo nỗi loạn tâm nên luyện tập lâu ngày thì vọng niệm bớt, còn lo nỗi hôn trầm (ngủ gục), đây là thông bịnh của kẻ khi còn dụng công thường có như vậy.
NẾU TRỊ CHỨNG LOẠN TÂM:Phải mọi việc đều buông bỏ, chính như thân thể ta và cảnh bên ngoài xem như không có (đừng đắm nhiễm một cái gì cho là thật và cố ý) chỉ chuyên tâm nhất niệm để tư tưởng dưới bụng thì tự nhiên trừ được vọng niệm, loạn tâm (an định được).
TRỊ CHỨNG HÔN TRẦM: Nếu để tâm chú ý tại đầu lỗ mũi khiến cho tinh thần thơ thới. (Buổi chiều và buổi tối, tịnh tọa thường bị hôn trầm ngủ gục, nhân vì cả ngày mệt nhọc nên dễ ngủ gục). Nên ta luôn dùng phương pháp đếm hơi thở từ một đến mười, đếm đừng lộn, lâu ngày thành quen, tam với hơi thở nương nhau thì tán loạn và hôn trầm đều hết cả. Đấy là phương pháp dạy đương khi tịnh tọa điều hòa tâm niệm rồi.
SAU KHI TỊNH TỌA XONG: Phải luôn luôn lưu ý đừng để loạn tâm, loạn tưởng (nghĩ vơ vẩn tạp loạn). Đây là phương pháp dạy sau khi đã tịnh tọa luôn giữ gìn tâm niệm không cho tán loạn.
Tóm lại từ trước chỉ dạy: 1. Điều thân, 2. Hơi thở, 3. Điều tâm. Ba phương diện ấy trong thực tế tương quan nhau nên phải đồng thời mà thực hành. Nhưng vì trên văn tự chép ra thì phải chia ra làm ba giai đoạn.