Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

3. Hiển Mật Song Biện

31/05/201101:09(Xem: 4936)
3. Hiển Mật Song Biện

 

BỘ MẬT TÔNG (Bốn Tập)
Dịch Giả:Tỳ Khưu Thích Viên Đức

A. TẬP MỘT
HIỂN MẬT VIÊN THÔNG
THÀNH PHẬT TÂM YẾU

III. HIỂN MẬT SONG BIỆN
(Giải rõ hai pháp Hiển giáo và Mật giáo)

Nếu nương theo Hiển Mật hai tông tu tập, đó là bực thượng căn, nghĩa là tâm tạo pháp giới, đế võng và các thứ quán, miệng tụng Chuẩn đề lục tự, các Thần chú, đây có 2 hạng người;

1 - Người đã tu lâu, Hiển Mật đều tu.

2 - Người mới tu tập, trước tu Hiển giáo Phổ Hiền quán, rồi mới Tam mật gia trì; hoặc dùng Tam mật rồi, vậy sau mới tu quán hai thứ đều được.

Tôi dù tài mọn, tâm còn Hiển Mật song tu cho nên Nhơn Vương Bát Nhã Đà Ra Ni Thích và Nhơn Vương Nghi Quỹ đều cho rằng: “Nếu không tu Tam mật môn, không y Phổ Hiền hạnh nguyện mà được thành Phật là điều không có lý!” Lại kinh Hoa Nghiêm Tự Luân Nghi Quỹ nói rằng: “Muốn đốn nhập Nhứt thừa, phải tu tập quán Tỳ Lô Giá Na Pháp thân; trước nên phát khởi hạnh nguyện Phổ Hiền. Lại lấy Tam Mật gia trì thân tâm, thời hay ngộ nhập được biển đại trí huệ của đưc Văn Thù Sư Lợi; là biết bậc thượng căn cần yếu Hiển Mật song tu. Bậc trung căn tùy lòng ưa muốn; hoặc Hiển hoặc Mật, chia tu một môn đều được. Nhưng Hiển viên Hoa Nghiêm các Phật đều khen ngợi, Bồ Tát đều tuân hành. Tây Thiên, Đông Hạ, Thượng Trí, Thượng Hiền đều quy tâm; là đạo giáo rộng hành, nhiều người thấy nghe, chẳng nhờ sự tán dương. Mật viên Thần chú là đnh của chư Phật, là tâm của Bồ Tát. Công năng rộng lớn, lợi lạc vô biên; vì thời lưu ít biết, nay lược thuật cũng phân làm hai:

A - Thuật Mật chú công đức sâu rộng.
B - Hỏi đáp Mật chú Pháp khí hơn kém.

A.TRƯỚC HẾT TRÌNH BÀY MẬT CHÚ CÔNG ĐỨC SÂU RỘNG.

Lược y Thánh giáo chia ra có mười môn. Rộng lớn thì vô lượng (vì nhiều người không biết Mật giáo là thù thắng thâm sâu cho nên đem mười môn để khen ngợi. Dùng cảnh tỉnh những ai chưa nghe; nếu thật một mặt bỏ Hiển, khen Mật cũng chẳng phải bậc Thông nhơn; kinh Hoa Nghiêm nói: Thọ một Pháp mà thôi bị ma ám ảnh; khuyên trì các kẻ hậu học. Hoặc Hiển, hoặc Mật, hoặc Tánh, hoặc Tướng. Thực hành thì giữ lấy một môn; tin thì cần phải viên thông vô ngại. Chớ đồng với kẻ mù rờ voi, đệ tử rửa chân! Tôi từng có bài kệ rằng:

Đại thán thân tuyên ngũ giáo văn.
Thiên môn vạn hộ nhập thiên nhơn.
Biển quán thọ nhứt phi như giả.
Tận thị Phật gia bất liễu nhơn.

Nghĩa:

Đại Thánh nhân tuyên năm thời giáo.
Muôn đường nghìn nẻo vào chơn đạo.
Khắp xem thọ một pháp mà thôi
Đều là người không rõ nhà Phật.

Lại nữa Chuẩn Đề đã tổng nhiếp 25 bộ; tức biết mười môn sau đây đều nói công đức của Chuẩn Đề Đà Ra Ni vậy.

1) Hộ trì Quốc vương An-Lạc nhơn dân môn.
2) Năng diệt tội chướng, viễn ly quỷ thần môn.
3) Trừ thân tâm bịnh, tăng trưởng phước huệ môn.
4) Phàm sở cầu sự giai bất tư nghì môn.
5) Lợi lạc hữu tình cứu thoát u linh môn.
6) Là chư Phật Mẫu giáo hạnh bổn nguyện môn.
7) Tứ chúng dị tu Kim Cang thủ hộ môn.
8) Linh phàm đồng Phật Như Lai, quy mạng môn.
9) Cụ tự tha lực hiện thành Bồ đề môn.
10) Chư Phật Như Lai thượng nãi cầu học môn.

1-Đầu tiên là hộ trì Quốc vương An-Lạc nhân dân: Nghĩa là Bí Mật Tạng Đà Ra Ni kinh đều nói rằng: “Đà Ra Ni năng hộ trì quốc vương, an lành nhân dân”. Cho nên Bảo Tạng Đà Ra Ni kinh nói: “Trong tất cả quốc độ, nơi nào có Đà Ra Ni lưu hành khiến nhơn vương thường được ủng hộ, thế lực tự tại; cũng hay ủng hộ sự chánh hóa của quốc vương. Có những kẻ như Vương tử, Phi hậu, Tể tướng, Phụ thần, các quan tướng thảy đều được ủng hộ; khiến được an vui, trong nước có nội ngoại oán địch mưu kế gian trá, tật dịch, cơn cẩn, nắng hạn, lụt lội, ác thú, độc long, tất cả việc bất tường như vậy thảy đều đoạn dứt. Lại khiến tiền tài, lúa thóc, phong nhiêu, kho lẫm đầy dẫy, hoa trái vinh thạnh, nhân dân an vui”. Bảo Tạng Đà Ra Ni kinh nói: Đà Ra Ni lưu hành chỗ nào, hay ủng hộ các Quốc vương, Vương tử, Phi hậu, Công chúa, trăm quan, Phụ tướng, khiến cho các tai nạn tiêu diệt, sở nguyện viên thành, thiên thần gia hộ; không khiến ma quỷ đến nhiễu não và trong nước lại được mười thứ quả báo tốt:

1) Trong nước không có tha bịnh, oán tặc xâm nhiễu.
2) Trong nước không có tinh tú biến quái mà khởi lên tai nạn.
3) Trong nước không có ác quỷ thần hành các tật dịch, thiện thần hộ vệ, vạn dân an vui.
4) Trong nước không có gió lửa, sương muối, mưa đá các nạn.
5) Trong nước không có kẻ oan gia rình tìm được.
6) Trong nước người không bị các ma bức bách.
7) Trong nước người không có các hoạnh tử.
8) Trong nước các món thóc lúa đầy đủ, trái ngon quả ngọt v.v…
9) Trong nước thiện long, mưa gió thuận thời, không có nắng hạn, bão lụt.
10) Trong nước người không bị các thú dữ như: cọp, beo, sói các ác thú làm tổn hại.

Lại Thất Phật kinh chú nói: Đà Ra Ni, nếu như nhựt nguyệt đi không đều, có thể khiến đi ngay lại. Luá gạo mất mùa, năng khiến được mùa. Đại thần mưu phản, ác tâm tự diệt. Tật dịch binh đao, thảy đều tiêu tán. Lại rằng: Các Nhơn vương muốn được hiện đời an vui, lìa các hoạn nạn. Các vị Quốc vương kia nên cần tâm đọc tụng Đà Ra Ni. Cũng phải khuyên hậu phi, thể nữ và các vương tử … cần tâm tu tập. Lại Thủ Hộ Quốc Giới Chư Đà Ra Ni kinh nói: Vì sao thiên nói hộ nơi quốc vương? Nghĩa là quốc chủ an vui thì vạn dân mới an vui, vì vậy nên nói hộ nơi quốc chủ. Diệp Y Quán Tự Tại Bồ Tát kinh nói rằng: Đà Ra Ni năng trừ tất cả hữu tình, tai hoạ, tật dịch, đói kém, giặc cướp binh đao, nắng hạn không đều, tinh tú thất độ. Cũng hay làm tăng trưởng phước đức, cõi nước giàu mạnh, nhân dân an vui, quốc vương, nam nữ đều được trường thọ. Trong kinh Tô Bà Hô Đồng tử nói: Ly ngoài Chơn ngôn không có pháp riêng nào năng ban vui cho chúng sanh được. Rộng như các Đà Ra Ni kinh nói: Xưa có Liêu quốc, Thiên Hậu Hoàng Đế, chánh pháp truyền khắp, Phật huệ lưu thông, kiên trì Mật chú đều được thần công, liền được lúa mùa, bắp nếp đầy kho; ngôi báu vững bền, nhân dân an vui lâu dài, chính nhờ sự linh nghiệm của Đà Ra Ni.

2-Năng diệt tội chướng, viễn ly quỷ thần.

Kinh Bồ đề Trường Trang Nghiêm Đà Ra Ni, kinh Tối Thắng Tổng Trì, kinh Lầu các Đà Ra Ni … Hơn hai mươi bản kinh đều nói viết, chép Đà Ra Ni để trong tượng Phật, tháp, trong bảo xử, hoặc viết trên tràng phan, trên điện đường, viết trên giấy lụa, vải, tre, hoặc trên vỏ cây hoa, tường vách, bảng mộc. Có chúng sanh được xem thấy hoặc thân tay rờ đến hoặc trong bóng ngã qua, hoặc những bụi trần trên chữ Chơn ngôn gió thổi nơi thân. Hoặc viết chép đeo mang tại đảnh, trên thân, trong áo hoặc viết trên tràng phan, nếu gió thổi phan động, phan kia chỉ chỗ chúng sanh. Hoặc chép lên chuông, trống, linh, mõ, loa, bạt … các tiếng trên vật ấy phát ra, nghe được tiếng ấy Trên đây đã nói: Các chúng sanh dù bị tội ngũ vô gián là nghiệp mà chư Phật cho rằng không sám hối được, cũng thảy đểu diệt tận. Đời sau sanh về các nước Phật, huống chi thân tụng trì đó ư? Cho nên người xưa nói rằng: Tội ngũ nghịch vô gián rất nặng, niệm chú liền tiêu vong. Nghiệp thập ác là cự khiên, vừa nghe liền bay mất. Trong Tùy Cầu Tụng có nói rằng:

Dầu phạm Ba La thập ác tội,
Sát A La Hán và tôn thân.
Ngũ nghịch căn bổn thất vô giá,
Ưng niệm tùy tiếng liền tiêu diệt.
Chơn ngôn Thánh lực công vô lượng
Nên con xưng tán chẳng nghĩ bàn.

Lại Mạt Pháp Trung Nhứt Tự chú, hết thảy Đà Ra Ni kinh nói: “Người trì chú nơi bốn phương hướng, trong vòng 500 dặm, các ác tinh diệu, quỷ thần, thiên ma… hết thảy chạy tản lạc mà đi. Vị nào có phát thiện tâm thủ hộ thì không đi. Nếu kẻ nào cố ý làm chướng ngại mà ở lại phá, liền bị chư hộ pháp đập bể đầu ra trăm miếng, thân tâm dập nát. Nhờ thế nên hành giả không bị các ma chướng và được đến Bồ đề.

Hỏi: Có người nói sự trì chú hay gây ra ma chướng, nay sao lại nói năng lìa được ma chướng?

Đáp: Đây là lời bàn nói của xóm làng, chứ trong Thánh giáo chẳng có văn này.

Nay Mật bộ các kinh đều nói: Đà Ra Ni năng lìa ma chướng, nơi đây chớ nên luận bàn. Như Hiển giáo trong kinh Pháp Hoa sợ có kẻ giảng tụng tu tập kinh Pháp Hoa có khởi các ma chướng. Cho nên nói phẩm Đà Ra Ni khiến trừ ác ma. Kinh kia nói rằng:

“Nếu chẳng thuận chú ta,
Não loạn người thuyết pháp
Đầu bị phá bảy phần,
Như nhánh cây A lê.”

Lại Thích Ma Ha Diễn Luận: “Dạy người tọa thiền cần phải tụng chú để trừ ma.
Lại trong Chỉ Quán nói: “Nếu các ma chướng làm não loạn sự tọa thiền, hành giả nên tụng Đại Thừa Phương Đẳng và các chú trị ma nói trong kinh giáo. Nếu khi xuất thiền, cũng nên tụng chú.”

Trong kinh Kim Quang Minh: Hàng Thập Địa Bồ Tát còn lấy Thần chú để hộ trì, huống gì phàm phu ư? Cho nên kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Nếu không trì chú mà ngồi đạo tràng, khiến thân tâm kia xa lìa các ma sự lẽ đó không bao giờ đúng.

Lại nói: “Đời mạt thế chúng sanh, muốn tu tam muội sợ đồng tà ma, nên phải khuyến khích trì Thần chú của Ta (Phật). Nếu chưa năng tụng chép nơi thiền đường hay đeo trên thân mình, thì tất cả các ma chướng không dám động đến”. Các văn như vậy, Tạng giáo rất nhiều, hiện thấy người đời vị quỷ thần não hại. Kẻ trì chú còn trừ cho họ được, huống chi tự thân mình lẽ nào ma quỷ dám làm hại ư?

3)Trừ bịnh thân, tâm, tăng trưởng phước huệ:

Kinh Thánh Lục Tự Đà Ra Ni, kinh Phổ Hiền Đà Ra Ni, Văn Thù Nhứt Tự Chú ...hơn mười lăm bổn kinh, đều nói môn hạnh Đà Ra Ni, năng trừ được các món thân tâm bịnh khổ. Nói thân bịnh ấy nghĩa là tất cả các thứ bịnh: nhiệt bịnh, lãnh bịnh, phong bịnh, ngược bịnh, nhãn bịnh, nhĩ bịnh, tỷ bịnh, thiệt bịnh, khẩu bịnh, xỉ bịnh, thần bịnh, hầu bịnh, diện bịnh, đầu bịnh, kỉnh bịnh, hung bịnh, hiếp bịnh, phúc bịnh, thủ bịnh, bối bịnh, yêu bịnh, tất bịnh, cước bịnh, tị bịnh, lỵ bịnh, đàm bịnh, khí bịnh, lâm bịnh, đinh bịnh, thủng bịnh, ban bịnh, tiểu bịnh, dượng bịnh, sang bịnh, cuồng bịnh, điên giản bịnh, quỷ mị bịnh… chỉ nêu ra các bịnh trọng yếu. Hoặc bốn đại làm các thứ bịnh; hoặc ngũ tạng làm các thứ bịnh; hoặc quỷ thần làm ra các bịnh; hoặc những bịnh do túc nghiệp gây ra. Những bịnh như vậy, lấy Thần chú bất tư nghì lực có thể trừ lành. Cho nên kinh Trì Cú Thần chú, kinh Đại Bi Tâm Đà Ra Ni đều nói rằng: Đà Ra Ni năng khiến cây khô trở lại sanh hoa trái huống chi là các bịnh hữu tình mà không trừ được sao!

Hỏi: Chơn ngôn hành giả chấp nhận việc gia trì quỷ thần để trị lành bịnh kẻ khác phải không?

Đáp: Kinh Diệu Tý Đồng Tử, kinh Tô Tất Địa … đều nói rằng: Nếu cầu thượng phẩm đại thành tựu, không được dùng Chơn ngôn gia trì quỷ thần cấm các trùng rắn để lành bịnh người khác. Làm việc đó thì hay ngăn ngại việc lớn, kẻ học nên y lời Phật, coi chừng dè dặt. Nếu thật lòng đại bi sâu rộng, ôm lòng Bồ Tát thì không ngăn cản việc đó. Cho nên kinh Quyến Sách nói: Trừ quỷ thần bịnh (bịnh tà) phải tu ba nghiệp thanh tịnh, đủ từ bi tâm; chư vị Bồ Tát mới hay làm việc đó.

Lại tất cả tham, sân, si bịnh tự tiêu diệt; cho nên kinh Bạch Tán Cái Đà Ra Ni nói: “Nếu có túc tập tham tâm không được trừ diệt, thì phải một lòng tụng Thần chú của Ta (Phật). Như cô Ma Đăng Già đã cùng ông A Nan nhiều kiếp ân ái, đem chú lực của Ta, làm cho ái tâm vĩnh đoạn, trở thành A la hán.”Còn như cô dâm nữ kia chẳng có tâm tu hành, khi Thần chú thấm vào cũng mau chứng bậc vô học, huống gì bản tâm cầu đạo Bồ đề đấy ư! Lại kinh Đại Bi nói: “Chí tâm xưng niệm Đà Ra Ni, lửa dâm dục diệt, tà tâm loại trừ”. Lại Như Ý Luân và tất cả các kinh Đà Ra Ni nói: “Chơn ngôn hành nhơn hiện năng tăng trưởng tất cả phước huệ. Phàm lời đã nói ra, người đều tin thọ, chỗ dụng y vật, tài bảo, tất cả cử ý tùng tâm. Năng khiếu trong vòng 500 do tuần, người, trời, quỷ thần đều đến quy ngưỡng. Lại tự nhiên thông hiểu tất cả: Kinh, Luật, Luận và các sách vở của thế gian. Hoặc nhớ tất cả không quên điều gì, mỗi ngày nhớ đến hàng nghìn bài tụng”. Cho nên kinh Đại Phật Đảnh nói rằng: “Nếu đọc hoặc tụng Đà Ra Ni ấy, dù các chúng sanh này, tự thân của mình không làm phước nghiệp. Mười phương Như Lai đã có công đức, tất phải ban cho người này.

Lại nói: Nếu trì Thần chú, không sanh nghi hối, mà kẻ thiện nam đó, do các bậc cha mẹ sanh ra mà tâm không được thông, thì mười phương chư Phật đều nói dối. Lại nói rằng: “Chưa tinh tấn, khiến được tinh tấn. Vô trí huệ, sẽ được trí huệ … Như chất thuốc dược nhỉ ở thế gian còn hay khiến người trừ bỏ ngủ nghỉ tăng trưởng tinh thần, huống nữa Thần chú lại không sinh trí huệ! Lại kinh Bất Không Quyến Sách Thần chú Tâm nói rằng: Nếu có tứ chúng thọ trì trai giới. Chuyên tâm trì tụng Thần chú bảy biến, chẳng xen tạp ngữ khác, phải biết người này hiện đời chắc chắn giữ được hai mươi món lợi thù thắng. Hai mươi món lợi đó là:

1. Thân không bị bịnh tật, được an ổn khoái lạc.
2. Do nghiệp lực đời trước, tuy có sanh bịnh nhưng trị mau lành.
3. Thân thể mềm mại, da thịt sạch sẽ trắng đẹp, mặt mày sáng sủa.
4. Được mọi người thương kính.
5. Mật độ các căn. (tai, mắt…)
6. Được nhiều tiền của quý báu, tùy ý thọ dụng.
7. Đã có tài bải, vương, giặc, nước, lửa không thể xâm tổn.
8. Sự nghiệp làm ra đều thành tựu tốt.
9. Đã có các món trồng tỉa, không sợ ác long, sương muối, bão lụt thiêu hủy.

10. Nếu có lúa thóc tai họa xâm phạm, nên tụng Thần chú gia trì nơi tro, hoặc nước trải qua 7 biến rồi đem rưới vào ruộng khắp 8 phương đã kiết giới, trên dưới, bấy giờ các tai hoạnh liền được diệt trừ.

11. Không bị những sự bạo ác của quỷ thần, la sát đến hớp hoạt tinh khí.

12. Tất cả hữu tình nghe thấy hoan hỷ, an lạc thường tôn trọng, không nhàm chán.

13. Không hề sợ sệt tất cả oán cừu.

14. Dù có oán cừu cũng mau tiêu diệt.

15. Người và các kẻ phi nhơn không thể xâm hại.

16. Yếm mị, trù rủa, thuốc độc, yếm chú chẳng dính vào thân.

17. Phiền não , triền cấu không thể hiện hành.

18. Đao độc, nước lửa không thể làm thương hại.

19. Chư Thiên, thiện thần thường theo hộ vệ.

20. Đời đời không xa rời từ bi hỷ xả.

Và trong kinh Thập Nhứt Diện Quán Thế Âm Thần chú có nói: Nếu có các tịnh tín, thiện nam, tín nữ thường trì tụng Thần chú; hiện thân sẽ thu được mười món thắng lợi; mười món đó là:

1. Thân thường vô bịnh.
2. Thường được mười phương chư Phật nhiếp thọ.
3. Tài bảo, y thực, thọ dụng vô tận.
4. Năng hàng phục kẻ oán địch mà không lo sợ.
5. Khiến các bậc tôn quý cung kính, tin lời.
6. Cổ độ, quỷ mị, không thể trúng thương.
7. Tất cả dao, gậy không thể làm tổn hại.

1. Nước không thể nhận chìm.
2. Lửa không đốt được.
3. Lâm chung không bị hoạnh tử.

4-Phàm sở cầu sự, gia bất tư nghì:(Phàm sở cầu việc gì đều không thể nghĩ bàn)

Kinh Quán Tự Tại Nghi Quỹ, kinh Văn Thù Sư Lợi Nghi Quỹ cùng các kinh Nhứt Tự Đảnh Luân … hơn mười bổn kinh đều nói Chơn ngôn hạnh nhơn, khi cầu thành tựu thì dùng bốn thứ vật:

1. Cung tên, rựa búa, câu, luân (bánh xe pháp luân) xử, cảnh (cái kính) hoặc sổ châu, bình bát, ca sa, tất cả các vật dụng của chư Tăng.

2. Hùng hoàng, thư hoàng, cũng như các món thuốc khác.

3. Lấy đất trên bờ sông hòa làm bùn dẻo rồi nắn hình sư tử, voi, ngựa, trâu tức loài đi chạy. Hoặc gà, ngỗng, chim, công, sí điểu … là loài bay cùng các hình thú khác.

4. Hoặc đắp vẽ, điêu khắc tất cả hình tượng Phật, Bồ Tát, Minh Vương; tùy lòng ưa muốn phân ra làm một việc, y pháp thành rồi mà đem để trong Đàn; như pháp tụng chú, khi thấy được ánh lửa xẹt ra; hoặc tay cầm hoạc xoa thân hoặc cỡi lên cùng trợ bạn tri thức bay lên hư không. Hoặc có người thấy thành tựu, hay thấy các người khác được thành tựu; tất cả đều được bay lên hư không, dạo chơi khắp thế giới, cúng dường chư Phật, Bồ Tát, đều thọ mạng một kiếp, chứng được Sơ địa, Bách pháp minh môn. Nếu khi thấy xẹt khói ra, dùng y như trước sẽ được làm vua ở cõi Tiên, trụ thọ muôn muôn tuổi.

Nếu khi hơi nóng phát ra được tất cả nhơn, thiên kính ái; sở cầu như ý; đây là tướng thành tựu của ba phẩm: thượng, trung, hạ.

(Nếu có lửa sáng phát ra, đó là thượng phẩm; khói phát ra là trung phẩm, hơi nóng phát ra là hạ phẩm). Lại nói rằng: Nếu hỏa quang hiện ra, được tất cả chư Thần thường đền ủng hộ; các chúng Bát bộ thường cung kính.

Dùng tất cả Thần chú đều được tối thắng, linh nghiệm. Nếu tướng khói hiện ra, tùy chỗ đi, ở đều không chướng nạn, sở cầu toại tâm. Nếu khí nóng hiện ra: Được tất cả người và quỷ thần đồng tâm kính ái.

Tây phương có một người được thành tựu thượng phẩm, dẫn 500 người bay lên hư không. Như tại đây (nước Tàu) có ông Hoài Nam Vương luyện chú nấu thuốc, gà chó đến liếm trong vạc đều bay lên hư không. Cho nên mọi người nói rằng: Hoài Nam thành đạo, chó sủa trong mây; Vương Kiều đắc Tiên, Kiếm bay lên trời. Dược lực còn vậy, huống chi Thần chú của Phật không thể nghĩ bàn ư! Thần Biến Sớ nói: Nguời tay cầm Tiên phương, chưa từng hòa hiệp uống dùng; lại hủy báng rằng: ban ngày bay lên hư không lại cho là hư dối, toàn là chuyện không tưởng. Lại Đại Giáo vương các kinh Đà Ra Ni nói : Hoặc khiến người tìm long nữ làm vợ, hàng dược xoa làm tôi tớ, cầm quyến tác vào tu la cung; chú vào tử thi khiến khai mở những của báu dưới đất. Hoặc nói thành nơi Thánh dược; hoặc nói tìm đến tài bảo … trong Hiển giáo, việc này ít nghe. Cho nên Tiên Đức nói: “Ngoài Tam thừa ra, riêng có pháp trì minh đó.”

Hỏi rằng: Bổn ý của chư Phật là khiến đoạn tham, sân tất cả, cớ sao khiến người khởi lòng tham cầu thế sự vậy.

Đáp: Chư Phật có phương tiện độ sanh không thể nghĩ bàn. Nghĩa là có những chúng sanh không chịu cầu thẳng tới đạo Bồ đề; vả lại tùy lòng ưa muốn, khiến trì chú cầu. Do sức Thần chú không thể nghĩ bàn, việc mong cầu được toại lòng; tất cả tội nghiệp được tiêu diệt, tự nhiên siêu phàm nhập Thánh. Như đứa trẻ con có bịnh, không chịu uống thuốc, thầy thuốc có đủ trí, thoa thuốc nơi vú mẹ; trẻ nít kia nút vào không ngờ đã uống được thuốc hay, trừ được bịnh khổ. Cho nên kinh Quyến Tác Tâm Chú có nói: Nếu có chúng sanh dù đem dua mị để cầu phú danh lợi, nếu được nghe chú này, các chúng sanh đó đời đời kiếp kiếp thành tựu được hưởng phức tụ trí huệ. Thần biến sớ nói cảnh giới Chơn ngôn. Thập địa Bồ Tát còn cho chẳng phải cảnh giới của các Ngài; huống là người trong cõi sinh tử ư! (Có người nói rằng: Đà Ra Ni phần nhiều khiến người có chỗ hy cầu, trở ngược lại gây tổn hại chúng sanh; đây là ly ngoại cầu, lấy vô cầu giống như đoạn kiến ngoại đạo. Nay Phật giáo nói: Trọn ngày cầu đó mà không thấy tướng cầu, là chơn vô cầu, chẳng đồng cây, đá, toàn là không ly cầu vậy. Cho nên Quán Âm Sao nói rằng: Tuy nhiên niệm niệm cầu, mà không có tướng năng cầu và sở cầu. Huống chi các Phật Đại từ, Đại bi đâu có cố ý làm tổn hại chúng sanh.)

5-Lợi lạc hữu tình cứu thoát u linh: Đại Bảo Lầu Các kinh, Đại Bi Tâm kinh cùng Mâu Lê Chú … hơn mười lăm bổn kinh đều nói: Nếu có chúng sanh được thấy thân người trì chú, hoặc nghe âm thanh lời nói, hoặc đi qua trong bóng của họ thì được tận diệt tội thập ác, ngũ nghịch, đời sau được sanh vào các nước Phật. Lại người trì chú, chỗ mắt họ thấy, chỗ thân họ chạm xúc, hết thảy loài hữu tình cũng diệt tất cả tội, đời sau sanh các nước Phật. Những người trì chú khi đi đường gió thổi, hơn gió này chạm vào hành giả rồi cuốn đi; hoặc thân rửa, tắm trong sông, suối nước cuốn đi những gì kỳ cọ; hoặc khi trời mưa, ngửa mặt lên không trung tụng chú, những hạt nước mưa trên không trung cũng thấm nhuần linh lực; hoặc trên đỉnh núi tụng chú, chỗ nào tầm mắt phóng tới tất cả sự kiện trên ảnh hưởng đến các chúng sinh như sau: mọi tội lỗi đều tiêu diệt, đời sau được sanh về cõi Tịnh độ của chư Phật, hóa sanh trong hoa sen. Như thế gian chỗ có thuốc độc, đi qua dưới gió, khi gió chạm vào liền bị tổn thương; còn có công lực khó lường huống nữa là Thần chú không thể nghĩ bàn ư! Lại kinh Quyến Tác nói: “Nếu nghe Đà Ra Ni mà sanh hủy báng, cũng vẫn được lợi ích. Như người có ác tâm đi vào trong rừng long não, chiên đàn rồi chặt bẻ, giậm, đạp, làm cho gãy, ngã tất cả, chính thân thể kẻ phá hoại đó cũng dính được cái hương khí thơm tho kia. Cho nên trong Phật Đảnh Tụng có nói: “thần thông thắng hoá, khó nghĩ bàn, Đà Ra Ni môn thật là đệ nhất.” Lại trong kinh Vô Cấu Tịnh Quang, kinh Bất Không Quyến Tác, kinh Phật Đảnh Tôn Thắng, kinh Tùy Cầu … nói “Nếu vong nhơn đã tạo nhiều ác nghiệp, khi chết đọa tam đồ; Chơn ngôn hành giả liền xưng tên tuổi, tộc họ của vong linh rồi chuyên tâm tụng chú, lúc bấy giờ vong ấy sẽ lìa khỏi được ác thú và sanh nơi thiên thượng.

Lại lấy Chơn ngôn chú vào nơi đất cát, hoặc hoa sen rải trên mộ, trên thi hài của vong nhơn liền được sanh về các cõi Tịnh độ của chư Phật. Ngoài ra các y vật, thân phần cốt nhục của vong nhơn mà được bóng người trì chú chói vào cũng được sanh về những nước Phật. Lại chép Đà Ra Ni rồi đặt trên hài cốt của vong nhơn, vong đó liền sanh nơi thiên cung. Cho nên bực Tiên triết nói rằng: Bụi rơi, bóng chói, Thần dạo thiên cung; rải đất, rưới nước, thức lìa ác thú”.

Hỏi: Vong nhơn tạo nghiệp đã thành, bị đọa trong tam đồ vì sao Chơn ngôn hành giả hoặc xưng tên, họ vong nhơn, hoặc chú nguyện vào cát đất để trên mộ, trên thi hài mà lại giúp cho vong đó chuyển khỏi đường ác khổ, còn được vui sướng ở nước Phật ư! Chẳng những kẻ tục sĩ ôm lòng hoài nghi, mà chính các vị xuất gia cũng khó tin.

Đáp: Kẻ trí lấy thí dụ mà được hiểu. Nay xin nêu ra thí dụ này: “Như cấm chủ của người đời; cấm lửa không cháy, cấm dao không đứt, cấm rắn không mổ, còn hay biến hữu độc thành ra hết độc; huống chi là Thần chú của đức Như Lai, không thể đổi khổ được vui đấy ư!” Lại như sách Liệt Tử có nói: “Sư Văn khéo gảy đàn cầm, chính nhằm mùa xuân mà gảy dây Thương để đàn khúc Nam, gió mát thổi đến, cây cỏ thành trái. (Dây Thương âm Kim, thuộc mùa thu, khúc Nam là khúc tháng tám, nhờ dây mà được khí Thu, cỏ cây ra trái) Chánh mùa thu mà gảy giây Giác, đánh khúc Giáp Chung có gió mát trở lại, cây cỏ phát sum xuê. (Giác, âm Mộc, nói thuộc mùa xuân, khúc Giáp Chung thuộc tháng hai, sinh ra được Xuân khí, cây cỏ đơm hoa). Đương mùa hạ mà gảy dây vũ để đánh khúc Hoàng Chung, sương tuyết rơi xuống, sông suối đông lạnh, đóng cứng. (Vũ âm Thủy, thuộc về mùa đông, khúc Hoàng Chung thuộc tháng mười một, nên băng tuyết đóng lại). Mùa đông mà gảy dây chủy, đánh khúc Nhuy Tân mặt trời chiếu sáng rực rỡ, băng cứng tiêu tan (Chủy âm Hỏa thuộc mùa hạn, khúc Nhuy Tân thuộc tháng năm nên được Hạ khí, băng cứng bị tiêu tan). Đây là cái thuật khảy đàn của thế gian còn biến mùa thu làm xuân, mùa đông làm hạ; huống nữa Thần chú của đức Như Lai, không thể nghĩ bàn. Và Thần chú nhiệm mầu lẽ nào lại không biến cải con đường ác khổ để được an vui nước Phật sao !!!

Ngài Trang Tử nói: Ngoài Lục hiệp, Thánh nhơn xét đến nhưng không luận bàn. Kinh Hoa Nghiêm nói: Lượng trí công đức đầy đủ của Thập địa Bồ Tát, thì Cửu địa Bồ Tát không hay biết, huống nữa đức Như Lai là vua trong các Thánh; chỗ có bí mật tâm ấn, đâu có thể lấy vọng tình của phàm phu mà muốn so lường đó ư! Kia như con cá nằm đáy giếng làm sao biết được sự sâu rộng ở biển Đông; chỉ nên tin chắc đó. Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Bí Mật Tạng Thần chú nói: Nếu có người trì chú, phàm ra làm việc gì cũng được thành tựu; chỉ cần phải thâm tín không được sanh nghi. Người trì chú đã có công năng lợi lạc hữu tình, cứu thoát u linh. Như kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Đại Bi Tâm Đà Ra Ni nói: Người nào trì chú sẽ không bị mười lăm món ác tử:

1) Không khiến người kia bị chết vì đói khát, khốn khổ.
2) Không bị chết vì côt trói, đánh đập.
3) Không bị oan gia, cừu đối mà chết.
4) Không bị quân trận giết nhau mà chết.
5) Không bị chết vì cọp beo làm hại.
6) Không bị chết vì rắn rít độc cắn.
7) Không bị chết vì nước trôi, lửa cháy.
8) Không bị chết vì trúng độc dược.
9) Không bị trùng độc hại chết.
10) Không bị cuồng loạn, thất niệm mà chết.
11) Không bị chết vì núi cây, bờ gộp sập đè.
12) Không bị người ác yếm mị mà chết.
13) Không chết vì tà thần, ác quỷ rình hại.
14) Không bị ác bịnh triền thân mà chết.
15) Không bị phi phản tự hại mà chết.

Lại kinh Bất Không Quyến Thần Chú Tâm nói: Người tụng chú lúc lâm chung được tám món lợi thù thắng:

1) Khi mạng chung, thấy Quán Tự Tại Bồ Tát hiện tướng Tỳ Kheo đến trước mặt an ủi.

2) Mạng chung được an ổn, không bị các sự thống khổ.

3) Lúc sắp mạng chung, mắt không trợn lớn, miệng không hả méo, tay buông thong thả, chân duỗi ngay ngắn, không tiết ra phân nhơ, nước tiểu, không bị trụt, rớt xuống đất.

4) Lúc sắp bỏ mạng, an trụ nhớ chánh niệm, ý không loạn tưởng.
5) Lúc chết không úp mặt.
6) Khi sắp chết được vô tận biện.
7) Khi đã xả mạng rồi, tùy nguyện sanh về các cõi Tịnh độ chư Phật.
8) Thường cùng thiện hữu không xa rời nhau.

Kinh Thập Nhứt Diện Quán Thế Âm Thần chú nói: Người tụng chú được bốn món công đức:

1) Khi lâm chung được thấy chư Phật.
2) Mạng chung không bị đọa vào chốn ác thú.
3) Không nhơn hiểm nạn, tai ách mà chết.
4) Được sanh về cõi Cực Lạc thế giới.

6)Chư Phật mẫu giáo hạnh bổn nguyện:Nghĩa là tất cả chư Phật đều từ Đà Ra Ni sanh ra. Kinh Lầu các nói: Chơn ngôn là mẹ của chư Phật, thành chủng tử Phật, nếu không Chơn ngôn thì không thành chánh giác. Tất cả Tam Tạng giáo điển đều do Đà Ra Ni phát xuất cho nên trong kinh Tối Thượng Đại Thừa Bảo Vương nói có bốn thừa:

1) Thinh Văn thừa
2) Duyên Giác thừa.
3) Phương Quảng Đại thừa.

4) Tối Thượng Kim Cang thừa. Đó là Đà Ra Ni tạng vậy. Tất cả pháp đều từ Kim Cang lưu xuất. Thần Biến Sao nói: Nghìn dòng, muôn phát khởi từ núi Tích Thạch, Côn Lôn. Mươì hai phần kinh phát xuất từ Tạng Tổng trì bí Mật; lại muôn hạnh cũng do Đà Ra Ni mà ra. Nghĩa là trong Chơn ngôn, mỗi mỗi một chữ toàn là Vô tướng pháp giới. Muôn hạnh đều từ pháp giới mà ra. Cho nên kinh Trì Minh Tạng Nghi Quỹ nói rằng: Chữ ÁN tức vô tướng pháp giới mà ra.

Thần Biến Sớ nói: Vô tướng pháp giới toàn là Chơn ngôn, Chơn ngôn toàn là vô tướng pháp giới; vả lại Chơn ngôn cũng gọi là Tam tạng. Có trì chú ấy đều là Tam tạng. Nghĩa là trong Chơn ngôn mỗi mỗi một chữ đều gm đủ cả Giới, Định, Huệ; đủ muôn hạnh không ra ngoài Lục độ, Lục độ không ly Tam học. Đã nói Chơn ngôn gọi Tam tạng tức biết Chơn ngôn bao gồm muôn hạnh. Chơn ngôn là Tổng hạnh, các pháp môn khác là chi lưu của các hạnh môn.

Hỏi: Trên dẫn kinh nói rằng: Đà Ra Ni là Thiền Định Tạng trăm nghìn tam muội thường hiện tiền. Nay lại nói: Chơn ngôn tổng hành Tam tạng, tức biết Chơn ngôn tổng chứa đủ tất cả môn thiền định. Cớ gì Thiền giả ngày nay không cho trì chú ư?

Đáp: Trong các truyện ký Thiên Trúc và Trung Hoa, xưa nay các thiền đức đêù vâng làm các điều thiện, huông gì Thần chú là vô tướng định môn tâm ấn của Phật ư!

Trong Bạch Tán Cái Đà Ra Ni có bài tụng rằng: Khai vô tướng môn viên tịch tông, tự tự quán chiếu Kim Cang định. Lại nói: “Du Già diệu chỉ truyền tâm ấn; Ma Ha diễn hạnh tổng trì môn”. Như Long Thọ Bồ Tát trong Truyền Đăng Lục ở Tây Thiên Thiền tông Tổ thứ 14, chép lược ra kinh Tạng Trì Minh, hoằng dương Thần chú Chuẩn Đề. Ngài Nhất Hạnh thiền sư là Thánh nhơn trong xứ Trung Hoa còn tán thuật thần biến Chơn ngôn; Ngài Trí Giả được túc mạng thông, rộng bày nghi quỹ Thần chú. Khế Phù thiền sư có người hỏi Tối Thượng thừa pháp, Ngài liền dạy tụng Mật ngôn; xưa các thiền sư đâu không cho trì chú ư?

Lại như Thiền tôn đã noí: Tất cả các pháp đều là chơn như. Trì tụng Chơn ngôn đâu không phải là chơn như? Nay có thiền sư hoặc giảng sư thấy hoằng truyền Mật chú, sợ mất lợi của mình, tâm sinh tật đố. Vậy xin quý vị hiện tại cũng như vị lai đề phòng ác báo. Cho nên trong kinh Phật Đảnh Vô Cấu Quang Minh Đà Ra Ni có nói: xưa có ông Vô Cấu Bà la môn vì người tuyên nói bí mật Thần chú.

Có ông Quang Minh trưởng giả, trước kia có nhiều người quy ngưỡng, sợ mất cái lợi của mình mà sanh ác tâm, ác tâm hưng khởi, ông liền mắc bịnh lác hủi, thọ đại khổ não. Cho đến khi chết đọa trong vô gián đại địa ngục chịu khổ một kiếp; trở lại đọa vào địa ngục một kiếp nữa mới được sinh làm người mà không có hai con mắt. Vì nhờ duyên lực kiếp trước, trở lại gặp Vô Cấu Bà la môn đang làm bực Tỳ Kheo tuyên nói Mật chú, vừa nghe liền sinh vui mừng rồi nhờ chú lực kia, lúc chết sinh cõi trời … Như trên đã nói: Hủy báng tuy có lợi ích nhưng sự lợi ích đó xa vời lắm và hủy báng đều có tội như ông trưởng giả Quang Minh kia vậy. Bởi vì Mật chú là tâm ấn của chư Phật có vô lượng Minh vương, chư Thiên, Long thần thảy đến hộ trì nên khiến người hủy báng hiện đời đa phần mắc bịnh lác hủi, xin mong kẻ thời lưu cần phải dè dặt.

7)Tứ chúng dị tu Kim Cang thủ hộ:Tất cả tứ chúng chỉ cần hiểu lời nói, đi, đứng, nằm, ngồi trong bốn oai nghi được dễ dàng tụng tập. Lại chỉ miệng tụng được gọi chơn hạnh. Năng trừ phiền não, an lạc pháp thân không nhờ thông suốt giáo điển, như người bịnh được uống thuốc, uống vào liền trừ bịnh, thân an không cần phải rộng hiểu sách thuốc. Cho nên kinh Bát Nhã nói: Tổng trì cũng như diệu dược, cũng như Thiên cam lồ, năng trị lành các bịnh, uống thứ đó thường an vui. Phật Đảnh Đà Ra Ni sớ nói: Trai giới không bẩm thọ mà được đầy đủ; quả chứng không xa mà có thể được: Tiêu hết nạn, đạt lợi ích. Tự tu hành lại hóa độ các người khác, bởi nhơn của người, bởi quả của người, không có cái gì mà không do điều này mà hiện rõ sự việc được. Lại Mạn Trà La Sớ nói: Ai niệm Thần chú của đức Như Lai, tâm tâm ám hợp tâm của Như Lai; đọc Mật ngôn của Bồ Tát, nguyện nguyện phù hợp nguyện của Bồ Tát; sanh tử nào không lánh xa, Niết Bàn nào mà không chứng đắc. Nếu y các tôn khác tu hành, cần yếu phải biết rộng giáo lý của Phật, tỏ ngộ được Chơn tâm, nhiên hậu tu hành mới là chánh hạnh. Nếu chưa ngộ mà tu, thì không phải chánh hạnh.

Như người bịnh ở đời, cần yếu phải biết rộng sách thuốc, hiểu rõ dược tánh mới trị được bịnh, tức khó được trong muôn một vậy. Nên biết Thần chú hạnh môn tóm lược công đức thâm sâu; khắp dẫn bảy chúng mau đến Bồ đề, rất là yếu đạo. Cho nên Ngài Nghĩa Tịnh Tam Tạng nói rằng: Lên trời cỡi rồng, sai sử trăm thần, phương pháp lợi sanh chỉ cần thần giúp đỡ.

Hỏi: Nếu y theo Hiển giáo sanh lòng tin, nương theo lòng tin phát sanh sự hiểu biết. Nương sự hiểu biết phát khởi hạnh tu hành, tu hành thành đắc quả. Nay Mật tông Thần chú không cần sanh hiểu biết, chỉ cần tụng liền được đạo quả. Đã vượt quy tắc thông thường, khó mà sanh lòng tin?

Đáp: Như người bịnh trong thế gian không hiểu phương thuốc, gặp được thuốc thần diệu mà uống, liền được thân tâm an ổn. Nếu đã không hiểu dược tánh, vì sao trừ bịnh thân an? Thuốc đời còn vậy, huống chi Thần chú không thể nghĩ bàn của đức Như Lai và giáo lý của đức Như Lai không thể lấy một lý mà suy. Đã nói Hiển, Mật có khác không thể lấy một mặt mà giải. Khởi Tín Sao nói: Ép chặt trụ đàn mà lên dây, toàn là ngu, ôm cây đợi thỏ chẳng phải kẻ trí. Chỉ nên tin mà tu trì sẽ mau đắc đạo quả. Nếu chẳng sanh lòng tin, thì luống uổng công chẳng ích gì. Kinh Đại Bi Tâm nói: Tụng trì Thần chú thì tất cả mọi sự mong cầu đều được kết quả toại nguyện. Chỉ trừ đối với Thần chú sanh lòng nghi.

Lại nói rằng: Nếu có sanh nghi không tin đó là trong trăm vạn kiếp thường ở chỗ ác đạo, không nghe được Tam-Bảo. Lại các kinh đã nói: Kẻ hành giả đối với Chơn ngôn trong bốn oai nghi, có vô lượng thiên long bát bộ chúng, Kim Cang thiện thần thường theo gia hộ. Cho nên kinh Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni nói tụng trì Đà Ra Ni là Vô úy tạng; Long thiên, thiện thần thường theo hộ trì. Lại nói rằng: Nếu như pháp tụng chú, tức có tất cả thiện thần, long vương Kim Cang Mật tích thường theo hộ vệ không xa lìa hai bên người trì chú, như giữ gìn đôi tròng con mắt, như hộ mạng mình. Lại người trì chú: Hoặc ở núi non, đồng vắng, ngủ riêng một mình, các thiện thần sẽ thay nhau ngủ nghỉ để bảo vệ trừ sạch tai chướng. Nếu ở nơi rừng sâu nuí thẳm, quên mất đường đi; các Thiện thần, Long vương hoá làm kẻ thiện nhơn chỉ đường về. Nếu gặp giặc, trận đánh, bị bọn cướp giựt, trốn lạc qua nước khác, thiện thần long vương sẽ dắt dẫn về chỗ cũ. Nếu ở nơi núi rừng, đồng vắng, nước, lửa hiếm ít; Long vương ủng hộ hóa ra nước, lửa. Cho nên kia có bài tụng rằng: Long Thiên chúng Thánh đồng từ hộ, trăm nghìn tam muội đốn huân tu. Lại trong kinh Đại Phật Đảnh Đà Ra Ni nói: Giả sử có chúng sanh nơi tâm tán loạn, miệng vẫn tụng Thần chú, thường được tám vạn bốn ngàn na do tha, hằng hà sa cu chi Kim Cang Tạng Vương Bồ Tát chủng tộc, mỗi mỗi đều có các Kim Cang chúng mà làm quyến thuộc, ngày đêm thường theo hộ vệ người này. Dù có ma vương phương tiện rình tìm người kia, cũng không thể được. Các tiểu quỷ thần xa lánh kẻ thiện nhơn này ngoài mươi do tuần. Nếu quyến thuộc của ma muốn rình tìm đến xâm nhiễu kẻ thiện nhân; các chúng Kim Cang lấy chày đập nát đầu, nhỏ như hạt bụi. Hằng ngày khiến người này làm việc như nguyện. Cho nên lời tụng kia nói: Tám vạn bốn ngàn Kim Cang chúng: Đi, đứng, nằm, ngồi đều theo hộ thân (hành giả).

Mật bộ các kinh rộng nói hộ trì cho người tụng chú; muốn biết rõ, xin xem trong Tạng giáo.

8)Khiến phàm đồng Phật Như Lai quy mạng: Chơn ngôn người hành giả, trì tụng Thần chú khi khoá số đã mãn; thân, khẩu, ý ba nghiệp ra làm các việc thiện ác, đều thành pháp môn vô lậu công đức. Cho nên Bạch Tán Cái tụng nói rằng: Tụng xong một vạn tám ngàn biến, biến biến nhập nhập nơi vô tướng định. Tên thành Kiến cố Kim Cang tràng, tự tại được gọi là Phật giữa loài người. Dù cho mắng chửi, chẳng lấy làm lỗi, chư Thiên vẫn nghe tiếng thành ra Phạn âm. Kinh Đại Bi Tâm Đà Ra Ni nói rằng: Tụng trì Đà Ra Ni ấy, trong miệng nói ra lời gì, hoặc thiện hay ác tất cả thiên long nghe đều là pháp âm thanh tịnh. Lại có bài kệ rằng:

Thí như thuốc linh đơn;
Điểm sắt thành vàng báu.
Tụng trì Đà Ra Ni;
Biến phàm làm Thánh Hiền.

Lại Thần Biến Sớ nói rằng: Chơn ngôn hành giả năng khiến ba nghiệp giống như ba nghiệp của Bổn Tôn. Lại kẻ hành giả trì chú, được quy mạng; cho nên được chư Phật quy mạng. Cho nên Phật Đảnh kệ rằng: Mười phương thế giới các đức Như Lai hộ niệm, cho người đó hộ trì vậy đó.

9)Đầy đủ tha lực, tự lực hiện thành Bồ đề:Trong Hiển giáo có Tự lực và Tha lực, hai môn Thập Trụ Luận, Niệm Phật cảnh … nói:

1)Tự lực môn: Nghĩa là tu lục độ hết thảy muôn hạnh gọi là khó hành đạo, như người đi bộ xa nghìn dặm thì phải đến chậm.

2)Tha lực môn: Các pháp môn niệm Phật gọi là dễ hành đạo. Như người đi đường thủy xuôi thuyền thuận gió thì được đến mau.

Nay trong Chơn ngôn bí Mật Thần chú đầy đủ hai lực Tự và Tha. Trong kinh Đại Thừa Bảo Vương Đẳng và các kinh nói: Hành giả Chơn ngôn ngày ngày được đầy đủ Ba la Mật, viên mãn công đức. Lại Phật Đảnh tụng rằng: Không trì trai ấy mà gọi là trì trai, không trì giới mà xưng là trì giới, Tăng pháp 250 giới, Tỳ Kheo Ni phạm Bát Ba La, khi nghe Phật Đảnh Đà Ra Ni liền được cụ túc Thanh Văn giới. Và trong Phật Đảnh Sớ có nói: Hạnh môn Bồ Tát tùy hành thời đủ; nay không hành mà tự đủ, là nhờ sức của Thần chú có đầy đủ muôn hạnh; lời nói này không sai.

Trong Chơn ngôn Tự Lực Môn: Mỗi mỗi một chữ đều là toàn thân của chư Phật. Kinh Mạt Pháp Trung Nhứt Tự Chú nói: Sau khi diệt độ, Ta biến thân làm chú này … tức là Tha Lực môn. Lại có các kinh nói: Chơn ngôn hành giả hiện đời năng thành Vô thượng Bồ đề. Cho nên kinh Lầu các nói rằng: Ta từ nơi vô lượng cu chi trăm ngàn kiếp, tuy hành khổ hạnh mà không được Bồ đề nhờ có vừa nghe Đà Ra Ni thì tăng thêm hạnh tương ưng, liền thành chánh giác. Lại Ngũ tự Đà Ra Ni tụng rằng: Chư Phật sức bổn thệ, hiện thành các việc Thánh. Nghĩa là chỉ ngồi niệm một lần, liền thành tới Chánh giác. Lại tựa Đà Ra Ni nói rằng: Nếu học chứa nơi tâm, tức là ba nghiệp của phàm phu sẽ biến thành chỗ chứa công đức, chỉ trong đời này liền được Bồ đề, không cần lao nhọc tấn tu nhiều kiếp. Lại Thần Biến Sớ nói rằng: Xét Đà Ra Ni làm Đại bất tư nghì thừa, thành Phật thần thông. Nghĩa là y các môn thành Phật, như cỡi dê, ngựa, đi nghìn dặm đường qua thời gian rất lâu mới đến. Y Đà Ra Ni môn thành Phật, như cỡi thần thông đi nghìn dặm đường, móng ý liền đến nơi. Chỗ đến tuy không khác, chỗ nương pháp có chậm, mau vậy. Lại các môn thành Phật như mài vàng đá lấy ngọc Như Ý, tu theo Chơn ngôn thành Phật như sức thần thông lấy ngọc Như Ý. Lại còng nói rằng: Các vị Bồ Tát vì cầu Bồ đề, tuy tu các khổ hạnh khó làm, như sự cứu lửa cháy đầu. Trải qua vô lượng kiếp còn không được thành tựu như vậy. Chơn ngôn hành giả nếu tu không thiếu pháp tắc thì chỉ trong đời này sẽ được thành công, đắc chứng Bồ đề. Cho nên Thần Biến Sao nói: Đốn siêu các địa vị, là ví dụ nhờ các thần thông, mau xa lìa phiền não ràng buộc, là vì nhờ chú thuật, và trong Đại Giáo Vương kinh nói: Nếu không y bí mật khóa tụng tu hành, sẽ không thành công trọn vẹn ở cõi Vô thượng Bồ đề.

10)Chư Phật Như Lai thượng nãi cầu học:(Các Phật Như Lai còn tìm cầu học).

Như Đại thừa Trang Nghiêm Bảo Vương kinh nói: Các Phật cũng cầu Thần chú, huống nữa phàm phu không trì tụng sao? Cho nên các kinh kia noí: Trong một lỗ chân lông của Quán Thế Âm Bồ Tát có vô lượng chư Phật và Bồ Tát. Phổ Hiền Bồ Tát vào trong một lỗ chân lông của Quán Âm, trải qua mười hai năm mà chẳng biết chừng đổi. Lại nói rằng: Đức Quán Âm có sáu chữ Đại Minh Đà Ra Ni; tất cả Như Lai đều không biết chỗ sở đắc kia. Nhơn vị Bồ Tát làm thế nào mà biết được, đến nỗi nói: Phật trên hoa sen đã thành Phật, để cầu sáu chữ Đại Minh này …

Hỏi: Phật có đủ tất cả trí, đâu không biết Đà Ra Ni đó ư?

Đáp: Có ba nghĩa:

1)Tiêu biểu Đà Ra Ni này là thù thắng thâm sâu, khiến tôn trọng. Như trên đã nói: Phật không biết mà tự cầu đó.

2)Phật trong Quyền giáo: Như A la hán hay Bích chi Phật: Phật trong Quyền giáo không thể biết được Viên tôn Mật chú. Như Tiểu Thừa cực quả không hay biết được pháp thâm sâu của Đại Thừa.

3)Mật tôn Thần chú: Tức thể, lại là Viên viên quả hải cho nên Phật không đắc được. Như Thích Đại Thừa Luận nói: Viên viên quả hải Phật cũng không đắc được. Nay Lục Tự Đại Minh và Chuẩn Đề Thần chú tức thể lại là Viên viên quả hải vậy. (Nay Mật bộ tất cả Thần chú là pháp sở thuyên trong Hiển giáo. Thật mà luận thì hàm đủ năng thuyên trong Hiển giáo. Nay Lục Tự và Chuẩn Đề chính là quả hải trong Hiển giáo).

Hỏi: Kinh Bảo Vương chỉ nói Lục Tự Đại Minh, Phật không biết được, cớ sao nay nói Chuẩn Đề mà Phật cũng không biết được?

Đáp: Kinh Bảo Vương kia nói: Lục Tự Đại Minh rồi, lại liền nói Chuẩn Đề, nên biết Chuẩn Đề là đồng quả hải. Lại Phật chỉ biết Phật nói Chơn ngôn ở trong Ngũ bộ: Phật bộ gồm thâu tất cả. Nay Chuẩn Đề độc riêng ngoài Ngũ bộ; chẳng chẳng Viên viên quả hải đó là pháp gì?

Lại hỏi: Luận rằng Chơn ngôn chỉ là ngôn giáo năng thuyên tức lấy tiếng danh, câu văn thể là thể, vì sao được cho là viên viên quả hải?

Đáp: Nếu hỏi câu này tức là chưa biết tôn chỉ của Mật giáo. Nay bí Mật Thần chú trong Mật giáo tức là pháp sở thuyên. Như trên đã nói, tất cả lời nói, văn tự thuộc về lời năng thuyên, phần nhiều lấy thinh, danh, cú văn làm thể hoặc lấy Duy Thức là thể. Trong Chung giáo nói: Lấy Vô tánh chơn như làm thể. Trong Đốn giáo lấy Tuyệt đãi chơn như làm thể. Trong Viên giáo nói lấy Thập huyền làm thể hoặc Hải ấn tam muội làm thể. Kia trong ngôn ngữ năng thuyên, trong Hiển giáo còn như vậy, tức là tuyệt đãi chơn như thập huyền môn, huống là Mật tôn Thần chú, chính là Nhứt chơn pháp giới trong Hiển viên ư! Lại Thích Ma Ha Diễn Luận, căn cứ vào năng thuyên trong sanh diệt môn. Hội tướng quy tánh, lấy chơn như làm thể hoặc lấy Nhứt tâm làm thể. Trong chơn như môn, lấy tuyệt đãi chơn như làm thể. Lại Thậm Thâm Huyền Lý Luận, Bất Động Bổn Nguyên Luận, trong hai bổn Luận kia, lấy gì làm thể, lấy lý suy gạn, thì biết nói là lấy bất nhị quả hải làm thể. Lời nói năng của nó còn như thế, tức cũng là bất nhị quả hải; huống hồ Lục Tự Đại Minh, Chuẩn Đề Thần chú, nghĩa là pháp sở thuyên trong hai bổn Luận kia ư! Lại từ xưa, các Ngài đều cho rằng: Bí Mật Thần chú là chư Phật tâm ấm, chỉ có Phật mới biết được chẳng phải nhơn vị có thể hiểu. Lại nay, kinh Bảo Vương nói: Phật cũng không biết Thần chú, nếu chẳng phải viên viên quả hải đó thì còn là gì nữa? Mong các học giả rộng lòng mà thể nhận, chớ vọng tình tự chấp!

Hỏi: Vì sao chư Phật không đắc được viên viên quả hải?

Đáp: Viên viên quả hải là pháp bổn tánh thành tựu, tiêu biểu chẳng phải chư Phật tu nhơn đoạn chướng mà được; lại tiêu biểu ra ngoài nhân quả vậy. Vì thế nên nói chư Phật không được cầu mà tự cầu đó. Cứ thật mà luận, các Phật đều biết được. Cho nên Ngài Hiền Thủ nói: Tánh đức quả hải, tức là thập Phật cảnh giới.

Hỏi: Lục Tự Đại Minh và Chuẩn Đề Thần chú đã là viên viên quả hải, tức là thập Phật cảnh giới cớ gì phàm phu trì tụng được?

Đáp: Nay trong Mật giáo nói: Lấy Chơn ngôn bất tư nghì lực khiến ba nghiệp phàm phu đồng ba nghiệp của Như Lai mà được trì tụng. Lại Mật tôn Thần chú, nếu y cứ vào chỗ hiểu biết, tức là chỉ cảnh giới của chư Phật. Nay nhơn vị phàm phu tuy chẳng hiểu biết, chỉ nên trì tụng tự nhiên diệt chướng thành đức, siêu phàm nhập Thánh. Riêng một nghĩa này người tục nghe nói mà phát sợ. Lý vượt thường tình; người đã ít nghe, kẻ phàm phu lại khó tin. Những bậc bác học Thượng Trí, xét kỹ nơi đây mà rõ. Ba nghĩa trên đây tùy lòng thủ, xả (lấy hay bỏ).

Mười môn từ trước đến đây lược bày Mật bộ, y tận kinh điển, chẳng phải kẻ hạ ngu này hay biết được Mật chỉ. Cho nên Thần Biến Sớ Sao nói: Chỉ có tay Kim Cang mới sờ được chỗ kín đáo; con mắt liên hoa mới có thể nhìn suốt nơi thâm sâu nhiệm mầu kia.

B. HỎI, ĐÁP MẬT CHÚ PHÁP KHÍ HƠN KÉM.

Hỏi: Mười môn như trên trình bày hết trong Chơn ngôn Viên giáo, là tất cả Chơn ngôn có hơn kém của ngũ giáo mỗi mỗi không đồng, hay là tất cả chơn môn mà không hơn kém đều là Viên giáo ư?

Đáp: Theo Thần Biến Sớ có hai môn:

1)Tùy tha ý môn:Tất cả Chơn ngôn có hơn kém, các bộ không đồng. Lại Ngài Thanh Lương sớ chú, ngoài ba Tạng: Kinh, Luật, Luận lập thêm một tạng bao gồm Đà Ra Ni làm thành bốn tạng. Một trong ba thừa đều có bốn tạng, làm thành mười hai tạng. Trong Tam thừa đều có Đà Ra Ni, Ngũ giáo sau đây mỗi mỗi cũng có Mật chú, như chú trong kinh A Hàm tức là Tiểu giáo. Các chú trong kinh Bát Nhã tức là Thỉ giáo. Chú trong kinh Kim Quang tức là Chung giáo. Chú trong Lăng Già tức là Đốn giáo. Lục Tự Đại Minh Chơn ngôn và Chuẩn Đề Thần chú trong kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương tức là Viên giáo. (trong mười môn trước đây đã dẫn chứng kinh Đà Ra Ni, phần nhiều là Viên giáo)

Phạn ngữ Đà Ra Ni: Tàu dịch là Tổng Trì, là lấy Giáo, Lý, Hạnh, Quả bốn pháp làm thể. Trong Ngũ Giáo Đà Ra Ni, mỗi mỗi bao gồm thâu nhiếp những giáo trong đó gọi là Giáo, Lý, Hạnh, Quả vậy.

(Hơn kém của Ngũ giáo nay nên lên ví dụ này để kẻ mới học được biết):

1) Tiểu giáo như sắt.
2) Thỉ giáo như đồng.
3) Chung giáo như bạc.
4) Đốn giáo như vàng.
5) Viên giáo như ngọc Như ý.

2) Tùy tự ý môn: Tất cả Chơn ngôn lại không hơn kém đều là Tỳ Lô Giá Na Đại Bất Tư Nghì Bí Mật Tâm Ấn. (Trong một đời giáo pháp cho đến Chơn ngôn do quỷ thần nói đều là Tỳ Lô Giá Na Như Lai, muốn pháp môn có lợi ích khắp chúng sanh, quý Ngài đã biến ra các loại quỷ thần mà nói Chơn ngôn được; chứ không phải thập loại quỷ thần mà nói Chơn ngôn được; các loại khác cũng vậy). Lại Hiền Thủ Thanh Lương lấy nghĩa phán giáo trong nhứt kinh gồm nhiều giáo. Tức là biết Chơn ngôn trong tất cả kinh đều là Viên giáo.

Tất cả Chơn ngôn gọi là Tổng Trì, năng tổng hàm nhiếp vô tận Giáo, Lý, Hạnh, Quả. Thật mà nói: Dùng tất cả hai môn mới phù hợp Phật tâm nhiệm mầu. Cho nên Thần Biến Sớ nói: Chơn ngôn hành giả hay ở trong sai biệt, giải vô sai biệt nghĩa. Ở trong vô sai biệt giải sai biệt nghĩa. Nên biết đó là người khéo đạt tướng Chơn ngôn vậy.

Hỏi: Trên nói Mật bộ là bao la rộng rãi, thâm sâu, khó suy, khó nghĩ: chưa xét pháp này hợp với căn khí nào.

Đáp: Chỗ hợp căn khí có hai:

1)Tùy tha ý môn: Chơn ngôn đã nói có Ngũ giáo không đồng, căn khí cũng có năm món sai khác, Đà Ra Ni trong ngũ giáo. Các giáo lý trong đó gồm có ba căn: thượng, trung, hạn. Cho nên trong kinh Mạn Trà La Sớ cũng có nói: Đà Ra Ni thông suốt đầy đủ các căn hơn kém.

2)Tùy tự ý môn: Tất cả Đà Ra Ni đều hợp với bất tư nghì viên căn. Cho nên Phật Đảnh tụng nói rằng: Thần thông thắng hóa bất tư nghì; Đà Ra Ni là môn tối đệ nhất. Nay có người chưa từng tán ngưỡng Mật giáo, mà phần nhiều cho rằng Đà Ra Ni tạng chỉ hợp hạ căn. Đây là lời nói rất sai lầm. Nhưng trong các kinh Đà Ra Ni hoặc gọi Tối Thượng Thừa, hoặc gọi Vô thượng Thừa, hoặc gọi Kim Cang Thừa, hoặc gọi Bất Tư Nghì Thừa, đâu có phải là chỉ hợp với hạ căn? Cho nên Ngài Thanh Lương nói: Lấy cạn làm sâu có phải lỗi báng pháp không? Mong các học giả nên lưu tâm, không nên cố chấp cái nghe trước mà sinh ra khinh chê. Ngũ giáo ở Thiên Trúc và Trung Hoa Hiển Mật cả hai đều rõ mới là bậc thông nhơn. Từ trước đến đây Hiển Mật đều giảng giải xong.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/08/2024(Xem: 612)
Quí vị hãy phát tâm từ bi vô lượng đối với chúng sinh, nghĩ rằng: "Thật tốt biết bao nếu tất cả chúng sinh đều thoát khỏi khổ đau và thoát cả nguyên nhân tạo khổ". Rồi gánh hết mọi vấn đề của chúng sinh về phần mình, nhất là các loại khổ đau đến từ bịnh tật, từ mối tương giao giữa người và người. Nhận lãnh mọi khổ đau cùng nguyên nhân tạo khổ, mọi mê muội ám chướng, mọi điều không ai mong cầu, gom thành một khối ô nhiễm, cho thấm hết vào vọng tâm chấp ngã, khiến vọng tâm chấp ngã bị phá hủy hoàn toàn, và rồi cái "ngã" mà vọng tâm bám vào, tưởng rằng quý giá lắm, bây giờ trở thành không [không có tự tánh]. Trụ tâm trong tánh Không càng lâu càng tốt. Quán sự nhận về như vừa nói trên, rồi quán về tánh Không. Thỉnh thoảng có thể mở tâm từ ái để hồi hướng tất cả, thân mình, sở hữu, cùng ba thời công đức của mình về con người khác, đặc biệt là cho những người ghét quý vị. Nhưng chủ yếu vẫn nên dành thời gian để quán sự nhận về.
17/04/2024(Xem: 1225)
Cư sĩ Huyền Thanh, thế danh là Nguyễn Vũ Tài, sinh ngày 01/04/1958 tại Thị xã Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Thân phụ tên là Nguyễn Vũ Nhan, nguyên quán tại làng Xối Đông, tổng Thần Lộ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Thân mẫu tên là Vũ Thị Ni, nguyên quán tại làng Lịch Diệp, tỉnh Nam Định. Thuở nhỏ Nguyễn Vũ Tài đã Quy Y với Hòa Thượng Thích Thanh Chiên, Trụ trì chùa Hải Vân ở khu Ấp Chợ, xã Tân Sơn Hòa, tỉnh Gia Định và được Thầy ban cho Pháp Danh là Huyền Thanh. Năm 1978, tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm khoa Toán Lý và đi dạy môn Toán cấp II từ năm 1979 cho đến năm 2003 thì chuyển qua làm công tác Giám Thị ở các trường Trung học Cơ sở Ngô Quyền quận Tân Bình, trường Trung học Cơ Sở Hoàng Hoa Thám quận Tân Bình, và trường Trung học Cơ Sở Nguyễn Gia Thiều quận Tân Bình cho đến khi chấm dứt công tác vào năm 2010.
25/03/2022(Xem: 6016)
Đừng quên vị bổn sư; Hãy cầu nguyện với người trong mọi lúc. Đừng tán tâm; Hãy nhìn vào tinh túy của tâm. Đừng quên cái chết; Hãy để nó thúc giục con tu tập Pháp. Đừng quên chúng sanh; Với lòng bi mẫn, hãy hồi hướng công đức cho chúng sanh, và cầu nguyện với lòng khát vọng.
02/12/2021(Xem: 19151)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
03/09/2021(Xem: 37592)
(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm) 1. TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN: Án, lam xóa ha. (3 lần) 2. TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN: Tu rị, Tu rị, Ma ha tu rị, Tu tu rị, Ta bà ha. (3 lần) 3. TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN Án, Ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần) 4. PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN: Án, Nga nga nẵng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần) 5. AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN: Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, Án, độ rô độ rô, địa vỷ ta bà ha (3 lần) Hộ pháp, Vĩ Đà thị chứng minh Thân trụ Phật tiền Tâm Tư nguyện Tưởng bằng bí chú đắc oan linh Hà chơn bất thức trì niệm Luật Thiên kinh vạn quyển vô nhất tự Nẳng mô tô tất đế, đa rị, đa rị, mạn đà, mạn đà, ta bà ha (3 lần)
01/11/2020(Xem: 18886)
1/Đệ nhất đại nguyện: quốc vô ác đạo. Đại nguyện thứ nhất: Cõi Cực-lạc không có các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy) 2/Đệ nhị đại nguyện: bất đọa ác đạo. Đại nguyện thứ hai: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không đọa vào các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 3/ Đệ tam đại nguyện: thân chơn kim sắc. Đại nguyện thứ ba: Thân của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có sắc vàng. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 4/ Đệ tứ đại nguyện: hình sắc tương đồng. Đại nguyện thứ tư: Hình sắc của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều bình đẳng, không đẹp xấu khác nhau. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 5/Đệ ngũ đại nguyện: túc mạng trí thông. Đại nguyện thứ năm: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có túc mạng thông, biết rõ các kiếp quá khứ. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)
04/03/2020(Xem: 40100)
Lễ Dâng Y Kathina & Cúng Dường Phẩm Vật chư Tăng tại Bồ Đề Đạo Tràng India, Nhân Lễ tưởng niệm ngày đức Phật (thái tử Siddartha Gautam) xuất gia, được sự trợ duyên của chư Phật tử và quí thiện hữu hảo tâm, chúng tôi đã thực hiện một buổi Dâng Y Kathina và cúng dường phẩm vật đến chư Tăng thuộc 3 truyền thống Mật tông Kim cương thừa (金剛乘, vajrayāna), truyền thống chư Tăng Nguyên Thủy các nước Theravada và chư Tăng Ni truyền thống Đại Thừa (Mahayana) tại Bồ Đề Đạo Tràng.
26/11/2019(Xem: 8928)
Giáo dục, phạm vi rộng, có nghĩa truyền thừa kinh nghiệm, hiểu biết, kiến thức chuyên môn, kiến thức tổng quát… Mỗi chuyên ngành có những đặc tính cần truyền thụ cho lớp kế thừa, đó là giáo dục chuyên môn. Trong nhà Phật, việc giáo dục chú hướng vào nhận thức bản thể, hiểu biết về thân tâm, nắm rõ luật nhân quả, cải tạo nhân cách và làm chủ cảm xúc,làm chủ tâm hành, có nghĩa hành giả cần làm chủ sanh tử trong cõi tử sanh.
28/08/2019(Xem: 7297)
Lần đầu tiên chùa Đức Viên (2440 McLaughlin Avenue, San Jose, California) hội đủ duyên lành cung thỉnh chư Tăng tu viện Namgyal (Ithaca, New York) kiến tạo một đàn tràng thiêng liêng bằng cát màu tuyệt đẹp trong hai tuần (từ ngày 12/8 đến ngày 24/8/2019). Đó là Kalachakra Mandala Thời Luân (Bánh Xe Thời Gian), biểu tượng cho vũ trụ để cầu nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc. Thời Luân là cung trời an lành, nơi trú xứ của các vị Thánh Hộ Phật, mang lại nguồn an lạc, có năng lực gia trì mạnh mẽ của chư Phật, và thanh tịnh hóa tại địa điểm khởi tâm cung thỉnh. Trong Thời Luân có 28 con thú trên lưng nở hoa sen là: 7 con heo, 7 con ngựa, 7 con voi và 7 con sư tử kéo xe chở các vị Thánh Hộ Phật.
07/08/2019(Xem: 4817)
Tỉnh Thức Rực Rỡ: Đọc Sách “Vivid Awareness”, Bài này sẽ giới thiệu và tóm lược tác phẩm “Vivid Awareness: The Mind Instructions of Khenpo Gangshar” (sẽ viết tắt là: VA) của đại sư Khenchen Thrangu, dựa vào bản Anh dịch của David Karma Choephel, ấn bản 2011, nhà xuất bản Shambhala. Sách này nói về một Thiền pháp của Kim Cang Thừa. Lý do chọn sách này vì qua đây có thể hiểu được và thâm nhập được Thiền Tông – tức là Thiền Trúc Lâm của Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com