TAM BẢO VĂN CHƯƠNG
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
(Nhân làng làm chùa, nhờ ông viết bài văn này để quyên giáo Thập phương.)
Từng mảng nghe rằng:
Ở lành thì lại gặp lành,
then báo ứng quỷ thần khép mở;
Làm phúc ắt là được phúc,
khuôn tài bồi tạo hóa đúc tô.
Việc từ bi xem cũng nhiệm mầu;
Đường phương tiện phải cùng san sẻ.
Ngôn niệm:
Bản ấp... tên Long tự...
Danh lam dấu cũ;
Thắng địa nền xưa.
Hang Bồng Lai Phương Trượng mở mang ra,
tranh Ma Cật sẵn dán giăng vầng thảo thụ;
Cảnh Thứu Lĩnh, Tào Khê thu nhặt lại,
thơ Thiếu Lăng từng vờn vẽ khách yên hà.
Mõ trúc phong lóc cóc dạo từng hồi,
giục giã đàn chim về lắng kệ;
Khánh thạch giản lanh canh khua mấy tiếng,
rủ rê bầy cá đến nghe kinh.
Vẫn là tay thiên thượng đặt bày,
muôn trượng đỉnh Phù Dung coi biếc biếc;
Nếu chẳng có nhân công trau chuốt,
một trùng non Đâu Suất đứng xanh rì.
Tuy trông vào đôi chữ tịch tà,
dạ quân tử phải ghi làm thiết thạch;
Song nhác thấy một đường khuyến thiện,
lòng nhân nhân sao nở để kinh chăn.
Rắp rủ nhau nhất độ kinh doanh,
hồ thu thủy lại thêm vầng phách thỏ;
Ví không cậy thập phương tư cấp,
cừu thiên kim nào phải chiếc dịch hồ.
Vậy nên:
Mượn chữ nam vô, khuyên lòng cố hữu.
Việc doanh tạo, kẻ giúp công, người giúp của,
dù Đông Ngô, Tây Sở, nơi xa xôi còn gắng sức nữa đồng châu.
Lòng tín thành, nhiều làm phúc, ít làm duyên,
đã Bắc Đẩu, Nam Tào sổ ghi ký khắp chua tên nào lậu bút.
Vẫn là đạo không không sắc sắc;
Phải miễn mình niệm niệm tâm tâm.
Chớ nói điều Phật bất cầu ai,
niềm hòa khí bỏ lạnh lùng trong tấc đất;
Rồi thấy buổi thiên vô tư phú,
bóng từ vân che mát mẻ cả phương trời.
Khương mấy nhà tích thiện có thừa,
dòng bách thế dõi tuôn như bích thủy;
Danh những kẻ lập công không nát,
bia thiên thu còn đứng với thanh san.
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
III. CÁC THỂ VĂN BIỀN NGẪU
(biền văn dụng niêm, biền văn dụng vận)
PHỔ KHUYẾN LÀM CHÙA
Ông nho Côi Trì(Nhân làng làm chùa, nhờ ông viết bài văn này để quyên giáo Thập phương.)
Từng mảng nghe rằng:
Ở lành thì lại gặp lành,
then báo ứng quỷ thần khép mở;
Làm phúc ắt là được phúc,
khuôn tài bồi tạo hóa đúc tô.
Việc từ bi xem cũng nhiệm mầu;
Đường phương tiện phải cùng san sẻ.
Ngôn niệm:
Bản ấp... tên Long tự...
Danh lam dấu cũ;
Thắng địa nền xưa.
Hang Bồng Lai Phương Trượng mở mang ra,
tranh Ma Cật sẵn dán giăng vầng thảo thụ;
Cảnh Thứu Lĩnh, Tào Khê thu nhặt lại,
thơ Thiếu Lăng từng vờn vẽ khách yên hà.
Mõ trúc phong lóc cóc dạo từng hồi,
giục giã đàn chim về lắng kệ;
Khánh thạch giản lanh canh khua mấy tiếng,
rủ rê bầy cá đến nghe kinh.
Vẫn là tay thiên thượng đặt bày,
muôn trượng đỉnh Phù Dung coi biếc biếc;
Nếu chẳng có nhân công trau chuốt,
một trùng non Đâu Suất đứng xanh rì.
Tuy trông vào đôi chữ tịch tà,
dạ quân tử phải ghi làm thiết thạch;
Song nhác thấy một đường khuyến thiện,
lòng nhân nhân sao nở để kinh chăn.
Rắp rủ nhau nhất độ kinh doanh,
hồ thu thủy lại thêm vầng phách thỏ;
Ví không cậy thập phương tư cấp,
cừu thiên kim nào phải chiếc dịch hồ.
Vậy nên:
Mượn chữ nam vô, khuyên lòng cố hữu.
Việc doanh tạo, kẻ giúp công, người giúp của,
dù Đông Ngô, Tây Sở, nơi xa xôi còn gắng sức nữa đồng châu.
Lòng tín thành, nhiều làm phúc, ít làm duyên,
đã Bắc Đẩu, Nam Tào sổ ghi ký khắp chua tên nào lậu bút.
Vẫn là đạo không không sắc sắc;
Phải miễn mình niệm niệm tâm tâm.
Chớ nói điều Phật bất cầu ai,
niềm hòa khí bỏ lạnh lùng trong tấc đất;
Rồi thấy buổi thiên vô tư phú,
bóng từ vân che mát mẻ cả phương trời.
Khương mấy nhà tích thiện có thừa,
dòng bách thế dõi tuôn như bích thủy;
Danh những kẻ lập công không nát,
bia thiên thu còn đứng với thanh san.
Gửi ý kiến của bạn