Kalu Rinpoche Tái sinh
Ngày 17 tháng Chín, 1990, giữa nhiều dấu hiệu tốt lành, Tulku (hóa thân) của Kalu Rinpoche được sinh ra ở Ấn Độ, trong gia đình của Lạt ma Gyaltsen và vợ là Drolkar.
Lạt ma Gyaltsen là thị giả thân cận và là cháu của Kalu Rinpoche. Ngài Chatral Rinpoche của phái Nyingma là người đầu tiên thừa nhận năng lực của đứa trẻ và tin rằng cậu là tái sinh của Kalu Rinpoche.
Tai Situ Rinpoche chính thức thừa nhận yangsi (tái sinh trẻ) của Kalu Rinpoche vào ngày 25 tháng Ba, 1992, giải thích rằng ngài đã nhận được những dấu hiệu rõ ràng từ chính Kalu Rinpoche. Situ Rinpoche đã gởi một lá thư xác nhận cùng với Lạt ma Gyaltsen tới Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Mười Bốn và Ngài đã lập tức thừa nhận. Nhiều người đã nhìn thấy những vòm cầu vồng phía trên tu viện của Kalu Rinpoche tại Sonada (Ấn Độ) vào lúc vị Tulku ra đời. Họ thuật lại rằng những cầu vồng ấy giống hệt cầu vồng đã xuất hiện trên tu viện sau khi Kalu Rinpoche thị tịch.
Như Bokar Rinpoche nói, việc Kalu Rinpoche chọn lựa để tái sinh tại trụ xứ trong đời trước của ngài – Tu viện Samdrup Tarjayling – là một dấu hiệu cho thấy tâm hoàn toàn tự tại của ngài. Bởi lòng đại bi và thiện tâm, ngài đã tái sinh để đáp lại những lời khẩn cầu của các đệ tử.
Kalu Rinpoche Tái sinh đã đăng quang tại Tu viện Samdrup Tarjayling ngày 28 Tháng Hai, 1993. Situ Rinpoche đã cử hành lễ xuống tóc và ban cho vị Tulku trẻ Pháp danh Karma Ngedon Tenpay Gyaltsen – Cờ Chiến Thắng của Giáo lý Chân Nghĩa. Sau đó, Đức Đạt lai Lạt ma đã viếng thăm tu viện và ban phước (gia trì) cho vị Tulku.