Giáo hóa Chúng sinh
Trải qua những gian khổ, với nghị lực mãnh liệt Rinpoche đã hoàn tất những thực hành tịnh hóa chuẩn bị, và những thực hành chính của các thiền định phát triển và thành tựu. Tiếng tăm về sự thành tựu của ngài lan truyền khắp nơi. Đối với Rinpoche, sống trong những sơn thất cô tịch là lối sống có ý nghĩa nhất, và ngài sung sướng được tiếp tục sống trong núi non và thiền định trong phần còn lại của đời mình. Sau khi Kalu Rinpoche trải qua mười hai năm thiền định theo cách này, các Lạt ma của ngài thấy rằng nếu ngài trở về và giảng dạy Giáo Pháp thì sẽ hết sức lợi lạc cho tất cả chúng sinh. Và cuối cùng, những khẩn cầu từ Tai-Situ Padma Wangchuk và Norbu Dondrub đã thúc đẩy ngài rời khỏi ẩn thất. Theo lệnh của Situ Rinpoche, ngài được chỉ định là Đạo sư của Trung tâm nhập thất ba năm của Jamgong Kongtrul Rinpoche tại Tu viện Pepung (Palpung), ở đó trong nhiều năm ngài liên tục ban những quán đảnh làm thuần thục, những giáo lý giải thoát, và thẩm quyền cần thiết để tụng đọc Kinh điển, và đã đào tạo được nhiều đệ tử thành tựu.
Sau khi hai khóa nhập thất đã hoàn tất dưới sự hướng dẫn của Rinpoche, ngài khẩn cầu Tai Situ Rinpoche và Palden Khyentse Ozer cho phép thực hiện một chuyến hành hương tới Lhasa. Ngài ước muốn được du hành như một hành khất, tự mang thực phẩm và quần áo của mình, nhưng Tai Situ Rinpoche phản đối và nói: “Ngài giống như viên ngọc quý của tôi,” và dâng cho Rinpoche nhiều bò yak cùng những người phục vụ. Tuy nhiên, Kalu Rinpoche chỉ nhận nửa số bò yak và chỉ có người em và một tu sĩ cùng đi với ngài.
Rinpoche đi hành hương tới xứ U, miền Trung Tây Tạng. Cùng lúc đó, Situ Rinpoche Pema Ongchuk Gyalpo tới chỗ hành hương. Theo lệnh của Situ Rinpoche, Rinpoche đã giảng dạy toàn bộ Sáu Giáo lý làm thuần thục và giải thoát của Niguma của Shangpa Kagyu cho vị Trì Minh Vương hóa thân vĩ đại phái Gelug là Kar Dor Rinpoche, và cho Lhatsun Rinpoche và nhiều geshe Gelugpa khác. Từ những vị này ngài nhận những vật cúng dường to lớn được tạo nên bởi lòng tôn kính vô biên. Tại Điện Jokhang ở Lhasa, Rinpoche đã dâng những vật cúng dường bằng vàng trước pho tượng Jowo (Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mười hai tuổi) , và tụng rất nhiều lời nguyện “Thiện Hạnh”. Tại Lhasa, Kalu Rinpoche tổ chức việc xây dựng lại một vài thánh địa Shangpa đã bị phá hủy và ban những nhập môn Dòng Shangpa và các giáo lý cho nhiều Geshe, Lạt ma và Tulku. Trong khi viếng thăm Tu viện Tsurphu, ngài dâng cúng mọi thứ ngài có cho Đức Gyalwang Karmapa thứ Mười Sáu Rangjung Rikpay Dorje. Vị Thầy vĩ đại này đã thừa nhận Kalu Rinpoche là hiện thân hoạt động của Jamgon Kongtrul Lodro Thaye.
Trong chuyến hành hương, khi ngài đang đi nhiễu những thánh địa ở U, Tsang, và Ru-shi, Rinpoche ở nhà của một thí chủ giàu có tại miền Kyangtsi. Trong một giấc mơ, một thiếu niên có nước da trắng hiện ra trước ngài và nói với vẻ buồn rầu rằng cậu là Khyungpo Tsultrim Gonpo, nhưng trong Thời đại Tối ám này cậu không thể làm lợi lạc cho giáo lý và chúng sinh. Rinpoche mơ thấy rằng trong y áo của chính ngài có một lưỡi dao tigug và một cái chén sọ người. Ngài lấy những món này cho cậu bé, và nói: “Nếu ngài không rời những vật dụng này, ngài sẽ thành tựu mục đích của ngài. Ngài đừng lo.” Sáng hôm sau ngài nhìn thấy một cậu con trai của gia đình giống hệt thiếu niên trong giấc mộng. Rinpoche nói với cha mẹ cậu rằng không còn nghi ngờ gì nữa, thiếu niên này là một hiện thể linh thánh và cậu cần được đối xử hết sức trân trọng và được đi vào cửa Pháp. Cha mẹ cậu rất vui lòng và Rinpoche thụ phong cho cậu bé đồng thời ban cho cậu những quán đảnh.
Trong khi ở tại trụ sở của Jetsun Taranata, Gadon Puntso Ling ở Tsang Lha Tser, Rinpoche đã ban cho tập hội vĩ đại các tu sĩ toàn bộ những quán đảnh, giáo lý, và thẩm quyền tụng đọc Kinh điển đối với Sáu Giáo lý của Niguma. Các tu sĩ dâng lên ngài những vật cúng dường to lớn.
Khi Rinpoche ở Lhasa, dường như Radreng Trichen và nhiều người khác muốn thỉnh cầu ngài ban những giáo lý tâm linh sâu xa nhưng Situ Rinpoche bảo tốt hơn ngài đừng nên ở đó. Theo lời khuyên này, Rinpoche khởi hành cùng sứ giả của Situ Rinpoche và trở về Kham.
Rinpoche đã thực hiện một trăm triệu lần trì tụng thần chú Mahakala Sáu-Tay. Và đồng thời, trên ba trăm ngàn lần trì tụng lời nguyện “Thiện Hạnh Cao quý” đã được thực hiện, bao gồm những câu do chính Rinpoche tụng và số lần trì tụng do ngài bảo trợ với những vật cúng dường. Thật là những công hạnh kỳ diệu!
Những hiện thể linh thánh thành tựu việc làm lợi lạc cho Giáo lý và chúng sinh bằng ba chu trình: chu trình đọc, nghe và suy tưởng; chu trình hoàn toàn tập trung (thiền định); và chu trình hoạt động. Một phần nhỏ những chu trình của Rinpoche chúng ta đã giảng rõ ở đây. Vì vậy chúng ta biết rằng những chứng ngộ và thấu suốt của ngài thì không thể nghĩ bàn. Nhưng là một “yogi lặng lẽ”. ngài đã giữ bí mật thiền định của ngài, và chúng ta không được thấy hay nghe những bí mật này. Tuy nhiên chúng ta biết rằng ở đâu có khói thì nơi đó có lửa, và ở đâu có hơi ẩm thì nơi đó có nước.
Trong một giấc mơ Rinpoche gặp Đức Phật và tám đệ tử thân thiết của Ngài, và mơ thấy ngài dâng cúng Lời Cầu Nguyện Bảy Chi. Một lần nữa trong một giấc mơ, bản thân Rinpoche biến thành Urgyen Guru Rinpoche (Đức Liên Hoa Sanh), và từ mười hai thiên nữ tsan-ma và những Dakini khác ngài đã nhận những vật cúng dường âm nhạc là những bài ca ngọt ngào và những lời cầu nguyện.
Trong giấc mơ khác, ngài gặp Jamgong Kongtrul đời trước. Vị Thầy này sử dụng chuông, trống, ban đầy đủ bốn quán đảnh, và cuối cùng tan vào ánh sáng và thấm nhập vào Rinpoche. Trong giấc mơ khác, ngài gặp Đức Tara Linh thánh và nghe nhiều lời tiên tri từ vị này. Trong một trường hợp khác ngài thấu hiểu giấc mơ và nhìn thấy một vũ điệu trong những cõi trời và nghe bài ca này:
Sinh trong miền Hor thượng,
Rồi nhờ kinh nghiệm thiền định
Thành tựu tiêu đích của Maha-Ati,
Cuối cùng tại nơi viên tịch
Tạ thế tại Samyes, Thị trấn Cát,
Sau đó lại tái sinh
Giữa Do-Kham và Kongbu,
Sinh ra là con trai một người hành khất.
Làm thuần thục và giải thoát nhiều chúng sinh.
Rồi từ giã cõi đời đó
Sinh trong một hoa sen
Trong Cõi Tịnh Độ Tây phương,
Không còn sinh trong Luân hồi Sinh tử.
Bởi chu trình hoạt động của ngài, Rinpoche xây dựng lại thiền đường cổ kính của Jamgon Kongtrul tại Pepung thành một công trình kiến trúc hảo hạng, làm mới những vòm và màn trướng thêu kim tuyến, những chiếc lọng và cờ chiến thắng. Ngài bỏ rất nhiều tiền của vào quỹ để duy trì việc nhập thất cho các tu sĩ. Để giúp Situ Rinpoche xây dựng một hình tượng Đức Di Lặc và những hình ảnh khác cho ngôi chùa của các ngài, Rinpoche đã du hành khắp xứ Hor để gây quỹ và thực hiện những lễ cúng dường gấm thêu kim tuyến, tiền và nhiều bao hạt.
Trong khi ở Tây Tạng, dù ở đâu ngài cũng tạo lập hàng ngàn viên đá mani, các chorten, tsa-tsa (2) và những bánh xe cầu nguyện to lớn. Ngài không dính mắc vào của cải của riêng ngài.
Khi nhiều người Tây Tạng trốn thoát sang Ấn Độ, ngài thiết lập hai thiền đường ở Bhutan. Ngài đã thiết lập năm trung tâm thiền định ở Ấn Độ. Sau đó tại Sonada ngài giảng dạy ba cuộc nhập thất liên tiếp tại thiền đường của ngài. Năm 1971, lần đầu tiên ngài tới Tây phương. Ngài đã thiết lập Naro Ling và Nigu Ling tại Pháp và bắt đầu mở ra cánh cửa dẫn tới sự thành tựu Mật thừa tại hải ngoại. Ngài đã viếng thăm vài quốc gia ở Châu Âu kể cả Vatican, nơi ngài được diện kiến Đức Giáo Hoàng John Paul I. Năm 1976, ngài thực hiện chuyến du hành thứ ba để xây dựng và bắt đầu khóa nhập thất ba năm cho các đệ tử Tây phương của ngài. Năm 1980 ngài trở lại Pháp để chấm dứt khóa nhập thất và bắt đầu khóa thứ hai. Ngài cũng ban quán đảnh Kalacakra tại Paris. Đây là lần đầu tiên quán đảnh này được ban tại Châu Âu. Ngài đã du hành khắp thế giới, mang Giáo lý của Đấng Chiến Thắng tới các quốc gia: Do Thái, Thụy Sỹ, Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy, Đức, Hòa Lan, Bỉ, Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Canada, Hawaii, và những quốc gia ở Viễn Đông bao gồm Miến Điện, Thái Lan, Hồng Kông, Đài Loan, và Nhật Bản. Tại các nước Châu Âu, ngài đã thành lập khoảng bảy mươi trung tâm Pháp và nhiều người có thiện duyên đã nhận được từ ngài ba loại thọ giới (1) và Giáo lý của Đức Phật.