Dòng dõi
Gyaltses Lodro Taye(Đức Kalu Rinpoche), người được thừa nhận là Hóa Thân Hoạt động để điều phục chúng sinh, là một trong nhiều hiện thân trí tuệ kỳ diệu của Jamgong Kongtrul Rinpoche. Tiền thân của Jamgong Kongtrul Rinpoche là A La Hán Ananda (A Nan), đệ tử thân thiết nhất của Đức Phật. Ngài là đại dịch giả Vairocana; là vị Thầy uyên bác và thành tựu Khyungpo Naljor; là Sakya Pandita, Jonang Taranata, và Rikdzin Terdak Lingpa. Toàn bộ dòng tâm của các ngài là một hiện thân, được Đức Phật tiên tri trong Kinh Samadhiraja (Kinh Định Vương) và Mahaparinirvana (Kinh Đại Bát Niết Bàn), và được Urgyen Chenpo Padmasambhava (Đức Liên Hoa Sanh) tiên tri trong nhiều pho sách kho tàng (terma).
Jamgong Kongtrul (1818-1899) sinh ở Derge thuộc vùng Do-Kham. Từ Sechen Pandita Gyurma Thutop Namgyal, từ Jamyang Khyentse Wangpo Thấu suốt Mọi sự, và từ Lạt ma gốc phi thường Situ Pema Nyinche cùng hơn năm mươi vị Thầy khác, ngài đã thọ nhận đại dương trí tuệ các giáo lý Kinh điển và tantra (Mật điển), là những điều ngài đã nghe và suy niệm một cách viên mãn. Trong kinh nghiệm thiền định của ngài, ngài đã thọ nhận thật rõ ràng dấu hiệu ấm áp của sự thành tựu. Các tác phẩm của ngài gồm có Kho tàng Trí tuệ Toàn khắp, Kho tàng những Giáo lý Kim Cương thừa, Kho tàng những Giáo lý Thì thầm bên tai, Kho tàng những Kho tàng Quý báu, và Kho tàng Phi thường kể cả Kho tàng những Giáo lý Bao la của nó. Nhờ công hạnh liên tục làm thuần thục và giải thoát của ngài trong việc sáng tác những tác phẩm này - những pho sách Năm Kho tàng Vĩ đại, ngài đã làm hồi sinh các giáo lý của các truyền thống, Cổ, Tân và Chiết trung đang ở thời điểm suy tàn. Ngài đã thành tựu những lợi lạc vĩ đại cho Giáo lý và cho chúng sinh. Ở tuổi tám mươi bảy ngài thị tich vào Pháp giới an bình. Hiện vẫn còn lưu lại một tiểu sử khá đồ sộ của ngài.
Kalu Rinpoche, hóa thân của Jamgong Kongtrul, sinh ra trong gia đình Ratak ở Beru, tại Hor Treshe vào năm Thủy Tị Nữ (1905). Thân phụ của ngài là Lekshay Drayang (Ratak Tulku), được gọi là Pema Norbu, một yogi (hành giả) thành tựu và là một thầy thuốc nổi danh. Ratak Tulku là hóa thân thứ mười ba của Ratak Palsang và là đệ tử trực tiếp của hai Đạo sư vĩ đại Jamyang Khentse và Jamgon Kongtrul Rinpoche, những vị Thầy khởi xướng phong trào không bộ phái (Rime). Thân mẫu của ngài đã hiến mình cho việc tu tập Phật Pháp từ khi còn rất nhỏ. Bà được gọi là Drolkar (Tara Trắng Nhỏ), một danh hiệu do Đạo sư Jamgon Kongtrul ban cho. Ngoài năm trăm ngàn thực hành chuẩn bị, bà đã hoàn tất một trăm triệu lần trì tụng thần chú Vajra Guru (Đạo sư Kim cương), hai trăm triệu thần chú Mani (Sáu Âm), một trăm triệu thần chú Amitabha (A Di Đà) và một trăm triệu thần chú Vajrasattva (Kim Cương Tát Đỏa). Từng dấn mình vào những tích tập rộng lớn về đức hạnh và tịnh hóa, bà bỏ lại thân xác vào tuổi bảy mươi tám tại Bumthang (Bhutan).
Khi Rinpoche ra đời, những vòm cầu vồng chói ngời và tuyết đổ thật nhẹ như một trận mưa hoa trên không trung và xung quanh căn nhà. Thân mẫu và những người thân của Rinpoche thuật lại rằng ngay khi sinh ra, cậu bé nhìn xung quanh và mỉm cười rạng rỡ, không hề lộ vẻ sợ hãi hay bẽn lẽn. Cậu nói về việc truyền bá giáo lý của dòng Kagyu và lập lại Thần chú Sáu-Âm. Cha mẹ cậu và mọi người trong vùng hết sức hoan hỉ, và việc cậu bé ra đời được báo trước như sự đản sinh của một hóa thân vô cùng kỳ diệu.
Thân phụ của Rinpoche có nhiều giấc mơ cho thấy Kalu Rinpoche là một hóa thân của Kongtrul Rinpoche. Đặc biệt là ngài Tubten Choskyi Dorje, Dzogchen Rinpoche thứ năm, đã dâng nhiều món cúng dường tâm linh, ba vật linh thánh, một con ngựa tuyệt hảo, và những vật cúng dường khác. Ngài bảo Ratak Tulku rằng con trai ông chắc chắn là hóa thân của Jamgong Kongtrul, và cậu bé cần được dâng cúng cho Tu viện Dzogchen. Ratak Tulku không đồng ý với điều đó nhưng giữ lại các tặng vật. Kalu Rinpoche nói rằng con ngựa rất ích lợi cho ngài và nói ngài cưỡi nó đi khắp mọi nơi.