Nguyễn Thế Đăng
Duy thức, như tất cả các con đường khác của Phật giáo, nhằm đến mục tiêu chiến lược là thấy được “hai vô ngã: nhân vô ngã và pháp vô ngã”. Nhân vô ngã là con người vô ngã. Pháp vô ngã là mọi hiện tượng đều vô ngã. Thấy được hai vô ngã là thấy thực tại tối hậu, gọi là tánh Không, Niết-bàn, Pháp thân, Chân Như… Nói theo hệ thống Duy thức, thấy hai vô ngã là giải tan Biến kế sở chấp tánh để Viên thành thật tánh hiển bày.
Sanh tử là do không biết rằng tất cả đều do thức biến hiện. Kinh Lăng Già đời Tống, Cầu-na Bạt-đà-la dịch:
“Thế nào người trí ở ngay nơi lầm loạn này mà khởi chủng tánh Phật thừa? Nghĩa là giác tự tâm hiện lượng, ở bên ngoài đều vô tự tánh nên chẳng có tướng vọng tưởng”.
D.T. Suzuki dịch từ bản Sanskrit (1932): “Đại Huệ, gia tộc Phật thừa khởi ra như thế nào khi sự lầm lẫn này được người trí phân biệt? Này Đại Huệ, khi thế giới được thấu hiểu không là gì cả ngoài chính tâm thức, bấy giờ dừng dứt những phân biệt có hiện hữu và không hiện hữu của những đối tượng bên ngoài, lúc ấy có gia tộc Phật thừa”.
Tu hành Duy thức là đạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉ là vọng tưởng không thật.
Không biết (vô minh) ngã và pháp là không thật, chấp vào chúng là sanh tử. Càng chấp vào chúng thì sanh tử càng nặng nề, như một ví dụ trong Kinh Lăng-giàlà con tằm nhả tơ thành tổ kén để càng lúc càng trói buộc mình. Biết ngã và pháp chỉ là vọng tưởng, càng biết rõ thì càng thoát khỏi sanh tử vọng tưởng.
Kinh Lăng-giànói: “Biết tự tâm hiện lượng thì vọng tưởng chẳng sanh”, và: “Ta nói rằng, thức vọng tưởng diệt gọi là Niết-bàn”.
2. Sự thực hành của ý thức
Trong tám thức, cái chúng ta có thể chủ động làm cho nó hoạt động nhiều nhất là ý thức. Cái tích tập nhiều mê lầm, nhiều nhiểm ô nhất cũng là ý thức. Nên mọi sự thực hành, mọi sự chuyển thức đều bắt đầu nơi ý thức. Câu nói “như lý tác ý” cho thấy rõ điều này.
Người ta đi đến sự thật bằng Văn, Tư, Tu.
Văn: là nghe. Trước hết là nghe những lời chỉ dạy từ những bậc giác ngộ. Nghe để mà tin, nhìn ra hướng đi, để thấy việc gì cần làm, điều gì cần bỏ. Nhưng sự tin này vẫn chưa rõ ràng, cần phải trải qua suy nghĩ, phân tích, thẩm định.
Tư: là tư duy. Bằng tư duy niềm tin sẽ trở nên vững vàng. Niềm tin được thanh lọc, được trui rèn qua tìm hiểu bằng lý trí sẽ đưa đến tin chắc, không thể khác được.
Tu:là thực hành. Khi đã tin, đã thấy rằng sự thực không thể nào khác, con đường không thể nào khác, người ta dấn thân vào thực hành.
Sự thực hành của chúng ta do ý thức đảm nhiệm, vì chúng ta chưa có cái gì cả ngoài ý thức có mặt lúc này. Hai khả năng chính của ý thức là:
1. Sự tập trung , chuyên chú, sự an định, an trụ nơi một đối tượng, một chủ đề. Cái này Phật giáo gọi là Chỉ, hay Định.
2. Sự quan sát, sự quán tưởng (nhìn thấy bằng tưởng tượng), sự nhìn thấy. Cái này Phật giáo gọi là Quán.
3. Hai cái này vận hành cùng lúc thì gọi là Chỉ Quán song tu hay Chỉ Quán đồng thời. Những phương pháp Phật giáo để chuyển hóa tâm thức đều nằm trong ba cái này.
Chúng ta xem xét ba cái ấy được áp dụng trong thực hành Duy thức như thế nào.
1. Chỉ. Trong bối cảnh Duy thức, Chỉ là sự tập trung, sự an trụ vào cái bản tâm thanh tịnh, cái tâm khi chưa nhiễm ô, cái tâm khi chưa biến động. Kinh Lăng-già nói là an trụ như như:
“Bồ tát do chánh trí này chẳng lập danh tướng, chẳng phải không lập danh tướng, lìa bỏ vọng kiến dựng lập và phá hủy, biết danh tướng chẳng sanh, ấy gọi là Như Như. Bồ tát trụ Như Như ấy đạt cảnh giới không thật có nên được Hoan Hỷ địa của Bồ-tát”.
Chỉ là an trụ trong tánh Như:
“Con đường Nhất thừa này được nhận biết và chứng ngộ như thế nào? Sự nhận biết Nhất thừa có được khi không có sự khởi sanh của phân biệt bằng cách an trụ trong thực tại của tánh Như (LV1. Suzuki)”.
“Hiểu ba cõi như huyễn, phân biệt quan sát sẽ được như huyễn tam muội. Đến chỗ tự tâm hiện lượng không chỗ có, được trụ Bát-nhã-ba-la-mật”.
Lấy vài thí dụ được lập đi lập lại trong kinh Lăng-già, thì chỉ hay an trụ là:
Trụ vào đại dương, không trụ vào sóng.
Trụ vào tấm gương, không trụ vào bóng.
Trụ vào bầu trời, không trụ vào mây nổi.
Trụ vào hư không, không trụ vào hoa đốm…
Tóm lại, trụ vào “cái chẳng sanh chẳng diệt là trí”, không trụ vào “cái sanh diệt là thức”.
Thiền chỉ là an trụ vào Chân Như, mặc dù ở những giai đoạn đầu, Chân Như là chỉ khái niệm, chưa phái là thực tại.
“Này Đại Huệ, cái gì là Thiền có đối tượng là tánh Như? Khi thiền giả nhận biết rằng sự phân biệt ra hai hình thức của vô ngã chỉ thuần là tưởng tượng, và hễ chỗ nào thiền giả an trụ trong thật tánh Như Như (Yathabhuta) thì chỗ ấy không có sự sanh khởi của phân biệt. Ta gọi đấy là Thiền có đối tượng là tánh Như (Tathata).
2. Quán
Thiền quán là “quán sát nghĩa”:
“Này Đại Huệ, cái gì là thiền quán sát nghĩa? Đó là thiền vượt khỏi các tướng nhân và pháp, tướng riêng và tướng chung, các ý niệm ta người và cả hai… của các nhà triết học chấp thủ, những cái đó điều không thể nắm bắt. Các thiền giả tiến hành việc quán sát và thuận theo nghĩa vô ngã của các pháp và tiến bộ lên các địa Bồ-tát. Đây là thiền quán sát nghĩa”.
Quán là quán sát, phân tích tìm hiểu, để thấy được hai vô ngã, thấy ra tất cả các pháp là Không, như huyễn:
“Bồ-tát thành tựu bốn điều thì được đại phương tiện tu hành:
a. Khéo phân biệt tự tâm hiện: Bồ-tát đi đến chỗ thấu hiểu rõ ràng rằng ba cõi này không là gì ngoài chính cái tâm, không có ngã và cái thuộc về ngã, không dao động, lìa đến và đi. Do tập khí huân tập từ vô thủy, các thứ hình tướng và hành động tương tác, và từ các vọng tưởng phân biệt mà có ra thân thể, tài sản, thế giới…
b. Quán tất cả bên ngoài là không có tự tánh. Nghĩa là tất cả sự vật đều như ảo ảnh, như mộng, như tóc rủ… Mọi sự đang có mặt là do vọng tưởng chấp trước từ vô thủy huân tập mà thành, quán sát tất cả sự vật bên ngoài là vô tự tánh.
c. Lìa kiến chấp sanh trụ diệt. Tất cả như huyễn mộng, mọi đặc tính ta và cái khác, chung cả hai, đều chẳng sanh. Thấy rằng thế giới bên ngoài chỉ hiện hữu tùy thuộc vào tâm, vốn không có tự tánh. Thấy thức chẳng sanh, các duyên không hợp tụ, tất cả là vọng tưởng duyên sanh. Ba cõi, tất cả các pháp trong ngoài đều bất khả đắc. Thấy mọi sự lìa tự tánh thì chấp có sanh bèn dứt. Biết tất cả các pháp tự tánh như huyễn, không từng sanh ra… bèn được Vô sanh pháp nhẫn. Được Vô sanh pháp nhẫn thì tự nhiên lìa kiến chấp sanh trụ diệt.
d. Tự giác thánh trí thiện lạc. Nghĩa là được vô sanh phấp nhẫn, trụ địa thứ tám của Bồ-tát, được lìa tâm, ý, ý thức, năm pháp, ba tự tánh, hai tướng vô ngã, được ý sanh thân”.
Lấy những ví dụ trong kinh Lăng-già, quán là quán thấy sóng là không thật, vô tự tánh và như huyễn. Xa lìa tướng sóng thì sóng chính là đại dương toàn nước. Tất cả các tướng thế gian chính là thật tánh, là tánh Không, là tánh Như. Nói theo thuật ngữ Duy thức, Biến kế sở chấp tánh chính là Viên thành thật tánh.
Các ví dụ khác cũng đều như vậy.
3. Chỉ Quán song tu: Là ở nơi tánh (chỉ) mà thấy các tướng (quán) là Không, như huyễn. Và ở nơi tướng thì thấy tướng chẳng lìa tánh, tướng chính là tánh. Chỉ quán song tu là tánh tướng đều Như Như.
III. Đi vào con đường Duy thức
Với sự miệt mài làm việc trên ý thức, với công phu miên mật Chỉ, Quán, và Chỉ Quán song tu, tới một lúc nào, khi những vọng tưởng tập khí mỏng dần, người ta đạt được sự thật về duy tâm duy thức.
Dùng chữ của kinh Lăng-già, người ta có một “chuyển y” lần đầu tiên. Nhờ cái chuyển y này người ta mới thực biết tâm là gì, thức biến là gì, vọng tưởng là gì, tánh Không là gì, chỉ là an trụ vào cái gì, quán thấy như huyễn là gì… Người ta đạt đến căn bản trí, mà hệ thống Duy thức gọi là Thông Đạt vị hay còn gọi là Kiến Đạo vị chung cho tất cả Phật giáo.
Thông Đạt vị là giai đoạn thứ ba trong năm giai đoạn: Tư Lương vị, Gia Hạnh vị, Thông Đạt vị, Tu Tập vị, và Cứu Cánh vị. Năm giai đoạn này là chung cho tất cả các con đường, tất cả các tông phái của Đại thừa.
Hai giai đoạn đầu Tư Lương vị và Gia Hạnh vị chưa thật sự “an trụ Duy thức”, chưa thật sự biết “tánh Duy thức”:
“Cho đến khi chưa biết rõ xác quyết, dù cầu an trụ trong tánh Duy thức, đối với hai thủ ngầm ẩn, còn chưa thể hàng phục tiêu diệt” (Tư Lương vị, Luận Thành Duy Thức).
Thông Đạt vị là đã thực sự biết “tánh Duy thức” là gì và an trụ được trong thực tại đó:
Nếu khi trong cảnh duyên
Biết đều không chỗ đắc
Bấy giờ trụ (trong tánh) Duy thức
Vì lìa tướng hai thủ.
Đây là thực sự thông hiểu tánh Không, tánh Như, tánh Duy thức, lìa được chủ thể và đối tượng ở mức độ thô để an trụ vào thực tại tánh Không.
Từ đây mới có sự tu hành thực sự (Tu Tập vị), có con mắt thanh tịnh để thấy rõ con đường (Pháp), cái gì là tánh Như, tánh Không và những cái gì là chướng ngại ngăn che tánh Như, tánh Không. Hành giả đích thực là người thấy phiền não chướng và sở tri chướng cụ thể như những tảng đá chắn đường trước mặt. Từ đây sự thực hành trở nên cụ thể, vì đã nhìn thấy sáng rõ mọi sự cả hai mặt tánh, tướng. Từ đây, người ta thực sự học kinh, vì kinh điển không còn là ngôn ngữ, ý niệm mà đã trở thành những thực tại cụ thể.
Từ đây, nhờ bước vào con đường thấynên việc tu hành trở nên minh bạch, cụ thể và dễ dàng. Sự tu hành trở nên giản dị mà sâu xa như những lời chỉ dạy về Thiền của Lục tổ Thiền tông Huệ Năng:
“Thiện tri thức! Sao gọi là ngồi thiền? Trong pháp môn này không ngăn không ngại, đối với cảnh giới tốt xấu ở ngoài mà tâm niệm chẳng khởi tưởng, gọi là Ngồi; trong thấy tự tánh mình chẳng động gọi là Thiền.
Thiện tri thức! Sao gọi là thiền định? – Ngoài lìa tướng là Thiền; trong chẳng loạn là Định. Nếu ngoài còn bám theo tướng, thì trong tâm sẽ loạn. Nếu ngoài lìa tướng thì trong tâm ắt chẳng loạn. Bản tánh mình vốn tự tịnh tự định, chỉ vì thấy cảnh phân biệt mà thành loạn động.
Này thiện tri thức! Ngoài lìa tướng tức là Thiền; trong chẳng loạn tức là Định. Ngoài thiền trong định, ấy là thiền định. Trong Kinh Bồ-tátgiới nói: “Bản tánh ta vốn vẫn thanh tịnh”.
Thiện tri thức! Tự tánh Chân Như mình khởi niệm, sáu căn tuy có thấy, nghe, hay, biết mà chẳng nhiễm muôn cảnh, chân tánh vẫn thường tự tại. Thế nên kinh nói: “Thường khéo phân biệt tướng các pháp mà ở trong đệ nhất nghĩa hằng chẳng động”.
Thiện tri thức! Ở trong niệm niệm, tự thấy bản tánh thanh tịnh, tự tu tự hành, tự thành Phật đạo”.
(Văn Hóa Phật Giáo số 133)