Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Truyền tin qua gió hay pháp môn Thiên lý truyền tâm

15/01/201203:41(Xem: 6987)
Truyền tin qua gió hay pháp môn Thiên lý truyền tâm
Alexandra David Neel-1
Truyền tin qua GIÓ

HAY PHÁP MÔN THIÊN LÝ TRUYỀN TÂM (1)
Alexandra David Neél – Huỳnh Ngọc Chiến dịch

Những đạo sư huyền thuật Tây Tạng thường trầm lặngít nói, trong số họ cũng có những người nhận môn đồ, nhưng giảng dạy bằngphương pháp tâm truyền chứ ít khi dùng đến ngôn ngữ. Việc mô tả những phươngpháp giáo huấn kỳ lạ đó không phải là chủ đề của bài viết này. Chỉ cần biếtrằng những môn đồ của các bậc đạo sư huyền thuật đó rất ít khi gặp được sư phụ.Thời gian giữa những lần gặp gỡ kéo dài hay mau đều tùy thuộc vào sự tiến bộcủa môn đồ, hoặc khi có những vấn đề về tâm linh cần đến sư phụ khai thị.Khoảng thời gian giữa những lần tiếp xúc của hai thầy trò kéo dài vài tháng, cókhi vài năm. Mặc dù xa cách và ít khi gặp nhau, nhưng thầy trò - đặc biệt làđối với những vị có công phu đạo hạnh cao - vẫn có một phương pháp liên lạc vớinhau mỗi khi cần thiết.

Thiên lý truyền tâm hay khả năng viễn cảm là mộttrong những pháp môn thần bí của người Tây Tạng. Dường như khắp nơi trên nhữngnúi non cao ngất của “Xứ Tuyết” này đều được phủ đầy bởi hiện tượng thiên lýtruyền tâm, giống như vai trò mà ngành điện tín vô tuyến đã thực hiện từ lâu ởphương Tây. Trong khi ở đất nước phương Tây, những thiết bị máy móc truyền tincó xu hướng thiên về đại chúng, thì ở nơi đây, sự truyền đạt những thông điệptế vi theo cánh gió(2)lại thuộc thẩm quyền của một thiểu số tu sĩđã thụ pháp.

Khả năng thiên lý truyền tâm không phải là điều xalạ với phương Tây. Những tổ chức nghiên cứu tâm linh đã nhiều lần ghi nhận cáchiện tượng thiên lý truyền tâm. Tuy nhiên, phần lớn các hiện tượng này đều xảyxa ngẫu nhiên và người trong cuộc lại hoàn toàn chẳng hay biết gì cả.

Kinh nghiệm cho thấy khi cố gắng thực hiện phươngpháp thiên lý truyền tâm một cách có chủ ý thì kết quả lại rất đáng ngờ, vìchúng không thể lặp lại thông điệp chính xác như mong đợi.

Đối với người Tây Tạng thì vấn đề này lại khác. Họcho rằng thiên lý truyền tâm là một bộ môn khoa học, và cũng như mọi bộ mônkhoa học khác, nó có thể được giảng dạy bởi những người đã được giáo huấn bàibản, đầy đủ và thấy mình có đủ khả năng thực hiện.

Người ta cũng chỉ ra thêm những phương pháp khácnữa đều nhằm mục đích đạt đến khả năng thiên lý truyền tâm, nhưng quan điểm củacác tu sĩ bậc thầy trong pháp môn này lại không nhất trí với nhau về quan điểmcho rằng nguồn gốc của hiện tượng này là sự tập trung tư tưởng cao độ đến mứcxuất thần.

Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nàokhéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàntinh thần để tập trung tư tưởng một cách mãnh liệt vào một đối tượng duy nhất,từ đó quyết định sự thành công của hiện tượng này.

Vai trò của “trạm thu sóng” có ý thức - vốn luônsẵn sàng cảm ứng với những dao động sóng thiên lý truyền tâm cực kỳ vi tế - khókhăn chẳng kém gì vai trò của “trạm phát sóng”. Trước tiên, người muốn trởthành “trạm thu sóng” phải có khả năng tương thông với trạm phát sóng mà từ đónó muốn nhận những thông điệp gởi đến.

Tập trung tưtưởng vào một đối tượng duy nhất, đến mức mọi đối tượng khác đều biến khỏi phạmvi nhận thức, đó là một trong những cột trụ trong việc luyện tâm của những tusĩ Lạt ma. Mặt khác, việc luyện tâm cũng bao gồm các phương pháp giúp pháttriển khả năng nhận thức những dòng năng lượng khác luôn xô đẩy vũ trụ chuyểnđộng theo mọi hướng.

Dựa trên sự kiện này, một số người khẳng định rằngcông phu thiên lý truyền tâm cũng như viêm công, hay nhiều năng lực hữu íchkhác, chỉ là những kết quả tùy sinh từ việc luyện tâm, do đó thật là vô bổ nếuxem nó là pháp môn riêng biệt để khổ luyện.

Một số người lại nhìn nhận sự việc theo cách khác.Họ công nhận rằng những năng lực thần thông đạt được từ việc luyện tâm cho phépthực hiện khả năng thiên lý truyền tâm cùng nhiều công phu huyền bí khác; nhưnghọ thêm rằng, những người dầu không đạt đến quả vị cao siêu trong Mật pháp hoặckhông khao khát cầu pháp vẫn có thể luyện thành công bất kỳ pháp môn tùy sinhnào.

Nói chung thì các đạo sư Mật tông tán đồng điều nàyở một mức độ nào đó, và có một số đạo sư chuyên dạy cho môn đồ pháp môn thiênlý truyền tâm.

Một số nhà ẩn tu, dù không luyện tập bài bản theohệ thống, vẫn có thể đón nhận được những thông điệp khai thị của các đạo sưtruyền đi bằng pháp môn thiên lý truyền tâm. Điều này được xem là do lòng tônkính sâu xa của họ đối với sư phụ. Chỉ có một số ít mới đạt được khả năngtruyền đi thông điệp một cách tự nhiên.

Về phương pháp luyện tập của pháp môn thiên lýtruyền tâm, có thể phác thảo sơ qua những nét chính như sau:

Trước tiên, hành giả cần phải thực hành những bàitập tập trung tư tưởng vào một đối tượng duy nhất đến mức xuất thần, để hợpnhất cùng đối tượng.

Song song với điều đó, cần phải luyện tập những bàitập bổ sung về tập trung tư tưởng là “hư tâm”, nghĩa là vất bỏ tất cả sựvật ra khỏi tâm trí, để cõi lòng lặng lẽ tịch nhiên tuyệt đối.

Tiếp theo đó hành giả phải quán tưởng và phân tíchnhững tác động đa dạng của các cảm xúc tâm sinh lý nảy sinh một cách đột ngộtkhó hiểu, cùng những trạng thái tinh thần đặc biệt như vui buồn, sợ hãi, thêmvào đó là những kỷ niệm bất chợt về người, về sự vật, về những biến cố dườngnhư chẳng liên quan gì với tư tưởng hoặc hành động của những người hiện ratrong hoài niệm.

Sau khi đã tập luyện như thế được vài năm thì hànhgiả mới được phép tham thiền với người thầy.

Hai thầy tròsẽ ngồi thiền trong một căn phòng kín, lờ mờ sáng và cực kỳ yên tĩnh để cùng tậptrung tư tưởng vào một đối tượng chung. Cuối buổi hành công, người môn đồ sẽthông báo cho vị Lạt ma biết những tư tưởng, cảm xúc hoặc những nhận thức kháchquan nảy sinh trong các giai đoạn tham thiền. Hai thầy trò sẽ đem những điềunày ra đối chiếu với nhau để tìm hiểu những điểm tương đồng hay khác biệt giữahai người.

Giai đoạn tiếp theo, vị thầy sẽ không cho biết mônđồ biết đối tượng cần quán tưởng, mà để cho môn sinh - trong nỗ lực giữ cholòng rỗng rang yên tĩnh không cho tư tưởng khởi sinh trong tâm trí - quan sátnhững tư tưởng, tình cảm cùng những nhận thức xa lạ bất ngờ xuất hiện. Cũng nhưgiai đoạn trước, người môn đồ sẽ thông báo cho vị Lạt ma biết những tư tưởng,hoặc hình ảnh nảy sinh trong quá trình tham thiền, và đem chúng ra để đối chiếuvới những gì mà vị sư phụ đã gợi ý cho mình bằng phương thức tâm truyền.

Đến lúc này, vị sư phụ sẽ để môn đồ ở cách mìnhtrong một cự ly không quá xa và truyền lệnh chính xác đến môn đồ. Nếu người mônđồ hiểu được thông điệp này thì anh ta sẽ trả lời lại sư phụ hoặc thực hiện nộidung của mệnh lệnh. Công phu này được lặp lại với khoảng cách giữa hai thầy tròtăng lên dần theo thời gian. Sau khi đã ngồi thiền trong cùng một căn phòng,hai thầy trò sẽ chuyển sang ngồi thiền trong hai căn phòng khác nhau của cùngmột tu viện, hoặc vị môn đồ sẽ quay về với thảo am hay thạch động của mình, rồichuyển xa dần khỏi chỗ ở của sư phụ thêm nhiều cây số.

Ở Tây Tạng, người ta tin rằng các đạo sư có pháplực thượng thừa có thể đọc được tư tưởng của người khác theo ý muốn. Đối vớicác đạo sư này thì môn đồ của họ không cần phải gởi thông điệp tư tưởng đến sưphụ bằng phương pháp thiên lý truyền tâm, vì sư phụ đã đọc được tư tưởng của họtrước cả khi họ tham thiền để thực hiện điều này.

Dù điều này đúng hay sai đi nữa thì khi được gáncho vinh dự là một doubtchén, nghĩa là một pháp sư pháp lực thượng thừa,thì vị pháp sư đó phải hành xử ra vẻ như ông ta thực có những thần thông màngười ta gán cho ông. Vì lý do này mà môn đồ của họ khi khởi đầu đạo nghiệp đềuluyện tập pháp môn thiên lý truyền tâm bằng cách gởi những thông điệp cho nhau.

Một nhóm khoảng hai ba người kết hợp với nhau đểluyện tập pháp môn này dưới sự hướng dẫn của vị Lạt ma sư phụ, và quá trìnhluyện tập cũng na ná như những gì đã được mô tả.

Những môn sinh lão luyện hơn thì tự kiểm tra sựtiến bộ của mình bằng cách gởi đi những thông điệp bất ngờ, nằm ngoài những bàitập dự kiến, vào thời điểm mà người nhận đang rất bận rộn và hoàn toàn khôngnghĩ đến việc đón nhận thông điệp.

Họ cũng cố gắng khơi dậy, bằng phương pháp thiên lýtruyền tâm, tư tưởng và hành động đối với những người mà họ chưa bao giờ luyệntập chung. Một vài người lại cố gắng khơi dậy hành động nơi loài vật.

Luyện tập phương pháp này phải tốn rất nhiều nămtháng. Thật khó lòng phỏng đoán chính xác có bao nhiêu người đã khổ luyện thànhcông môn này. Hơn thế nữa, sẽ sai lầm khi tưởng rằng có đông đảo môn sinh theohọc pháp môn thần bí này, như ta thường thấy tại các tu viện lớn. Trong mộtthung lũng hoang tịch như thế này, thì số lượng năm sáu môn đồ sống quanh thảoam của một vị ẩn tu cũng được xem là đông rồi. Ngần đó đã là con số tối đa hiếmkhi đạt tới. Cách xa nơi đây, tại một hang núi khác ta có thể bắt gặp thêm mộtvài môn đồ sống trong những thảo am sơ sài, ở quanh nơi ẩn tu của sư phụ họ cáchchừng vài cây số. Qua đó, ta có thể hiểu được nhiều bài luyện tập môn thiên lýtruyền tâm đã được một số ít hành giả thực hiện tại những địa điểm khác nhau.

Mặc cho những thành tựu mà các hành giả đã đạt đượckhi khổ luyện môn thiên lý truyền tâm, các bậc chân sư Mật tông khả kính nhấtvẫn không hề khuyến khích điều này. Đối với các vị đó thì việc thành tựu nhữngnăng lực siêu nhiên cũng chẳng khác gì trò chơi của trẻ con, hoàn toàn chẳngđáng quan tâm.

Có vẻ như trên thực tế những bậc đại ẩn tu có thể tùyý truyền thông tư tưởng cho môn sinh bằng pháp môn thiên lý truyền tâm, vàngười ta còn nói rằng các vị đó còn có thể truyền thông tư tưởng cho bất kỳloài hữu tình nào; nhưng như đã nói, những năng lực siêu nhiên đó chỉ là nhữngkết quả tùy sinh của tri kiến thâm huyền về những quy luật tâm lý và sự hoànthiện tâm linh.

Khi đã đạt đến giác ngộ thì không còn sự phân biệtgiữa tangười, giữa chủ khách, giữa năngsởmà tất cả đều viên dung nhất thể, cho nên pháp môn thiên lý truyềntâm được thực hiện dễ dàng. Dù trong pháp môn này có một phần sự thật và mộtphần tưởng tượng, song tôi thấy khôn ngoan nhất là đừng nên bàn gì về chúng.

Từ những quan sát đã thực hiện suốt nhiều nămtháng, tôi có thể kết luận rằng, pháp môn thiên lý truyền tâm cũng như nhiềupháp môn thần bí khác dường như đã tìm được ở Tây Tạng một vùng đất thuận lợiđể phát triển, hơn bất kỳ nơi nào trên thế giới. Nói một cách chính xác thìnhững điều kiện thuận lợi đó là gì? Trả lời dứt khoát câu hỏi này là một hànhđộng liều lĩnh, trong khi bản chất của những hiện tượng tâm linh siêu nhiên nàyvẫn còn là điều huyền ẩn.

Có thể là do các hiện tượng tâm linh phải đối mặtvới ảnh hưởng địa lý của lãnh thổ cao ngất trời này. Có thể là do sự tịch lặngmênh mông bao trùm lên toàn xứ sở. Nếu tôi dám tự cho phép mình sử dụng cáchdiễn tả lạ lùng thì đó là sự tịch lặng diệu kỳ mà ta có thể nghebàngbạc vang trên những tiếng cuồng nộ thét gầm của thác ghềnh, sông suối. Cũng cóthể là các năng lực tâm linh hiển thị dễ dàng nhờ sự vắng bóng của những cụmdân cư đông đúc, vì những hoạt động tinh thần tại những nơi này sẽ tạo ra vô sốcơn lốc năng lượng tinh thần làm rối loạn những làn sóng tế vi của hiện tượngtâm linh.

Cho dù là vì nguyên nhân gì đi nữa thì sự truyềnthông tư tưởng bằng pháp môn thiên lý truyền tâm, một cách vô tình hay cố ý,vẫn không phải là chuyện hiếm xảy ra tại Tây Tạng.

Bản thân tôicũng đã từng nhận những thông điệp thiên lý truyền tâm của vị Lạt ma mà tôi cónhiều quan hệ. Có thể số lượng thông điệp nhiều hơn tôi tưởng. Nhưng tôi chỉgiữ lại, xem như là những tư liệu quan sát quý giá, một số ít thông điệp mànhiều ngày sau hoặc nhiều tháng sau, vị Lạt ma hỏi tôi về kết quả của chúng màthôi.

Bên cạnh các phương pháp truyền thông tư tưởng mangsắc thái liên quan đến yếu tố tâm linh, tuy không hẳn là phương pháp thiên lýtruyền tâm nhưng liên quan đến tính đồng nhất tư tưởng giữa sư phụ và môn đồ,tôi xin kể lại hai câu chuyện bất ngờ mang sắc thái hoàn toàn khác.

Một trong hai câu chuyện này xảy ra tại lưu vựcsông Dainchine, trong cuộc hành trình của tôi đến Lhassa. Vị Lạt ma, tác giảcủa những thông điệp mà tôi thấy giống như hiện tượng thiên lý truyền tâm, sốngtại tu viện Tcheudzong.

Yongden và tôi đã trải một đêm ngoài trời, trongmột cái hố tự nhiên do những cơn mưa liên tục xói lở đất tạo nên, nhưng giờ đâyđã khô và rắn lại nhờ sương giá. Vì không có chất đốt để nhóm lửa pha trà bơcho bữa điểm tâm quen thuộc, chúng tôi phải lên đường sớm để tìm chỗ lưu trúthường ngày. Đến trưa, chúng tôi bắt gặp một vị Lạt ma vẻ mặt khả kính đangngồi trên tấm thảm lót yên ngựa3,sát bên vệ đường. Ông ta vừa dùng cơm xong. Cùng với ông còn có ba tu sĩ trẻ (trapa)vẻ mặt thông minh sáng sủa, tựa hồ là môn đồ chứ không phải là những kẻ tùytùng. Bên cạnh nhóm người này là bốn con ngựa dàm cương đang cố gặm đám cỏ khô.

Những lữ khách này đã dùng củi nhóm lửa, và một ấmtrà vẫn còn đang bốc khói trên than hồng.

Chúng tôi, trong bộ quần áo cải trang thành nhữngkẻ hành hương khất thực, lễ phép chào hỏi vị Lạt ma theo nghi thức. Khi nhìnthấy bình trà, có lẽ sự thèm muốn uống trà hiện ra trên gương mặt chúng tôi. VịLạt ma lẩm bẩm: “Nyingdjé” (Thật tội nghiệp!), rồi cất cao giọng mờichúng tôi ngồi, bảo chúng tôi đưa bát để rót trà và cho bánh tsampa.

Một trapaliền rót phần trà còn lại vào bátchúng tôi và đặt một đĩa bánh tsampabên cạnh chúng tôi, rồi đi đến giúpnhững người trong đoàn thắng yên cương ngựa để chuẩn bị lên đường. Một con ngựabất ngờ lồng lên bỏ chạy vì sợ hãi. Đây cũng là một biến cố thường xảy ra. Một trapakhác liền cầm dây chạy theo để bắt nó lại.

Vị Lạt ma không phải là người hay nói, ông chỉ lặnglẽ ngồi yên, đưa mắt theo dõi con ngựa đang tung vó chạy băng qua cánh đồng trơtrụi. Chúng tôi tiếp tục ngồi ăn trong yên lặng. Tôi đảo mắt nhìn quanh và nhìnthấy một bình gỗ chứa đầy sữa. Tôi đoán vị Lạt ma đã nhận bình sữa này từ mộttrang trại mà tôi nhìn thấy trên đường đi, ở cách đây không xa.

Tôi nói thầm vào tai Yongden:

- Khi nào vị Lạt ma kia đi rồi, con hãy đến trangtrại kia xin một ít sữa.

Mặc dù tôi nói rất khẽ, nhưng dường như vị Lạt makia hiểu được lời tôi nói. Ông đưa mắt nhìn tôi rất lâu với vẻ dò xét, rồi hạthấp giọng lẩm bẩm: “Nyingdjé” và ngoảnh mặt đi.

Con ngựa không bỏ chạy xa, mà tựa hồ như đang hứngchí chơi đùa nên cứ nhảy nhót lung tung, khiến vị trapakia không saođến gần được. Cuối cùng thì nó cũng đứng yên để vị tu sĩ trẻ quàng sợi dâyquanh cổ dắt về.

Vị Lạt ma vẫn ngồi bất động, đưa mắt đăm đăm nhìnngười môn đồ đang dắt ngựa. Người này đột nhiên ngừng lại, đứng yên một lúc,thái độ có vẻ chăm chú, rồi dắt con ngựa buộc sau một tảng đá. Sau đó anh taquày quả đi bộ về phía trang trại. Một lúc sau tôi thấy anh ta quay trở lại chỗbuộc ngựa, tay cầm một “vật gì đó” không rõ.

Khi anh ta đến gần, tôi mới nhận ra “vật gì đó”chính là một bình gỗ đầy sữa. Anh ta không đặt bình sữa trước mặt tôi, mà đưamắt nhìn vị Lạt ma như muốn hỏi: “Sư phụ muốn con làm gì đây? Con phải làm gìvới bình sữa này?”

Trước những câu hỏi được lặng lẽ đặt ra, vị Lạt machỉ khẽ gật đầu xác nhận và ra lệnh cho người môn đồ đưa bình sữa cho tôi.

Câu chuyện thứ hai tôi sắp kể đây không xảy ra tạiTây Tạng, mà tại biên giới tỉnh Cam Túc và Tứ Xuyên của Trung Quốc.

Tại vùng biên của khu rừng mênh mông trải dài giữaTangan và ngọn đèo Kunka, có sáu người xin gia nhập vào đoàn chúng tôi. Vùngnày nổi tiếng là khu vực hoành hành của thổ phỉ Tây Tạng, cho nên mỗi khi điqua đây, khách đi đường thường phải kết hợp với nhau thành từng nhóm đông đảovà vũ trang đầy đủ.


Alexandra David Néel  2Alexandra David NéelAlexandra David Neeltác giả Alexandra David Neél


Năm trong số sáu người bạn đồng hành mới của chúngtôi là thương nhân Trung Quốc, người còn lại là một phù thủy (ngagspa)đạo Bön. Ông ta vạm vỡ, to lớn, mái tóc dài bó trong một tấm vải đỏ tạo thànhmột dải băng dài.

Vì luôn tận dụng mọi cơ hội để tìm hiểu về giáo lývà các nghi thức tôn giáo, nên tôi mời vị lữ khách cô đơn kia dùng cơm, với hyvọng được nghe ông ta phiếm đàm về những đề tài tôi đang quan tâm. Tôi đượcbiết ông ta đang trên đường đến với vị sư phụ - một pháp sư đạo Bön đang thựchiện đại nghi lễ thần bí doubthab trên một ngọn núi gần đây. Mục đíchcủa nghi lễ này là hàng phục một ác thần, và bắt y phá hoại một trong những bộlạc nhỏ trong vùng.

Sau vô số thủ thuật ngoại giao, tôi mới bày tỏ ýmuốn được yết kiến sư phụ ông ta, song vị môn đồ thẳng thừng tuyên bố không thểđược. Sư phụ ông ta tuyệt đối không thể bị quấy rầy trong trọn tháng âm lịchnày, vì phải dành trọn thời gian để tiến hành nghi lễ.

Tôi biết có nài nỉ cũng vô ích, nên định bụng sẽtheo dõi vị ngagspanày khi ông ta rời đoàn chúng tôi, sau khi vượt quangọn đèo. Nếu kín đáo tiếp cận vị pháp sư kia một cách bất ngờ thì không chừngtôi có thể nhìn thấy được đàn tràng thần bí này cùng những thứ pháp khí khácdùng trong nghi lễ.

Tôi thấy kế hoạch có vẻ ổn thỏa nên dặn dò nhữngngười tùy tùng kín đáo bám sát vị ngagspakia, đừng để ông lén lút bỏđi.

Hình như những người tùy tùng của tôi nói chuyệnvới nhau quá lớn về chuyện này, khiến vị ngagspabiết được ý đồ của tôiđối với đạo sư (gourou) của ông ta, nên lên tiếng cảnh báo tôi có cốgắng làm cũng chỉ hoài công vô ích.

Tôi trả lờirằng tôi không hề có ý đồ xấu, mà chỉ mong muốn được trò chuyện thân mật với vịpháp sư để học hỏi thêm. Tôi dặn dò những người tùy tùng phải bám riết viên ngagspakia chặt chẽ hơn nữa.

Người bạn đồng hành của chúng tôi hiểu rằng ông tabị ép buộc để trở thành một tù nhân, nhưng vì thấy điều đó cũng chẳng gây hạigì và nhất là được ăn uống thỏa thích - một điều mà người Tây Tạng rất xemtrọng - nên ông tham gia chuyến lữ hành với tâm trạng vô cùng vui vẻ.

- Đừng lo tôi bỏ trốn - ông ta bảo tôi - bà có thểcho người trói tôi lại nếu bà muốn. Tôi chẳng cần đi trước để báo cho sư phụtôi biết bà đang đến, vì người đã được thông báo trước rồi. Gnais loung giténg la lén tang tsa(Tôi đã gởi cho người một thông điệp bằng pháp mônthiên lý truyền tâm rồi).

Các ngagspathường là những kẻ ba hoa khoáclác rằng họ có những năng lực siêu phàm, nên tôi cũng chẳng quan tâm chi đếnnhững lời ông ta nói.

Thế nhưng lần này tôi đã lầm.

Sau khi vượt qua ngọn đèo, chúng tôi tiến vào mộtthảo nguyên. Trên vùng thảo nguyên bao la như thế này thì bọn cướp không cònđáng sợ nữa, vì chúng khó tìm ra được chỗ để phục kích.

Những thương nhân Trung Quốc, suốt mấy ngày qua khicòn ở trong rừng, cả ngày lẫn đêm đều không dám rời đoàn người của chúng tôinửa bước, giờ đây đã lấy lại sự tự tin và vội vã chuẩn bị lừa ngựa để từ biệt.Tôi vẫn có ý định theo dõi vị ngagspakhi ông ta bỏ đi, thì một đoàn kỵmã khoảng sáu người đột nhiên xuất hiện trên một mô đất và phi nước đại về phíachúng tôi.

Khi đến gần, họ liền xuống ngựa chào hỏi và tặngcho tôi mấy cái khăn khadag(4)và một ít bơ. Sau khi kếtthúc nghi thức tặng quà, một tu sĩ lớn tuổi bảo tôi rằng vị đại pháp sư đạo Böncho đem lễ vật này đến tặng tôi để xin tôi từ bỏ ý định tiếp cận ông ta. Ông takhông được tiếp xúc bất kỳ ai, ngoại trừ một trong những đệ tử đã thụ pháp,không một ai được đến gần nơi ông ta đang triển khai đàn tràng huyền thuật.

Tôi buộc lòng phải từ bỏ kế hoạch của mình. Dườngnhư vị ngagspakia đã thực sự gởi đi một thông điệp cho sư phụ ông tabằng phương pháp thiên lý truyền tâm. Tôi hiểu có ôm khư khư ý định cũng chẳngích gì.

Mặc dù người môn đồ đã cho tôi thấy bằng chứng vềnhững năng lực phi thường, tôi vẫn ngờ rằng chính vị sư phụ kia mới là ngườidùng huyền lực để ngăn không cho tôi đến gần ông, song những người dân núi vạmvỡ đeo súng bao quanh tôi đang đứng sờ sờ ra đấy, tôi không thể cho là họ nhữngảo ảnh không có thực. Họ tỏ ra rất mực lễ độ, không hề có biểu hiện ác ý gì vớitôi, nhưng thái độ của họ chắc chắn sẽ thay đổi, nếu như tính ương bướng củatôi đe dọa đến sự thành công của một đại nghi lễ đang thu hút sự quan tâm củatoàn bộ lạc.

Tôi cũng đưa cho vị ngagspamột tấm vải khadagvà một ít tiền để cúng dường cho sư phụ ông ta. Tôi chúc mừng cho những ngườiTây Tạng kia đã may mắn có được một viên pháp sư thượng thừa, rồi chúng tôithân mật giã từ.

Dường như hiện tượng thiên lý truyền tâm bằng hìnhảnh cũng tồn tại đối với người Tây Tạng. Nếu như tin vào hành trạng của nhữngvị Lạt ma nổi tiếng, được truyền khẩu giữa những người Tây Tạng, ta sẽ thấy cónhiều câu chuyện điển hình của loại này. Song trong những hành trạng đó, sựthật và hư cấu trộn lẫn với nhau chặt chẽ đến mức thà nghi ngờ còn hơn là tinhẳn những câu chuyện dị thường được kể lại trong đó.

Trong thời đại chúng ta, vẫn có những người khẳngđịnh đã từng ghi nhận những ảnh tượng được truyền đi bằng phương pháp thiên lýtruyền tâm.

Những hiện tượng này hoàn toàn khác với giấc mơ.Đôi khi những ảnh tượng đột nhiên xuất hiện trong quá trình thiền định, nhưngđôi khi lại xảy ra khi người nhận đang bận rộn với công việc thường ngày.

Một vị Lạt ma tsipa(nhà chiêm tinh) kể chotôi nghe rằng, một hôm ông đang ngồi dùng bữa thì chợt thấy người bạn đồng tulà một Lạt ma gyud (vị Lạt ma tốt nghiệp khoa huyền thuật), mà đã nhiềunăm qua ông chưa hề gặp lại. Người bạn đồng tu này đứng ngay trước cửa cùng vớimột trapatrẻ tuổi, đeo một túi vải trên vai, điệu bộ giống như đangchuẩn bị lên đường. Người thanh niên quỳ xuống đảnh lễ vị Lạt ma để giã từ, vịLạt ma mỉm cười nói vài câu gì đó rồi đưa tay chỉ về hướng Bắc. Vị trapangoảnh mặt về hướng đó và quỳ xuống đảnh lễ ba lần. Khi đứng lên, vị trapacầm cái áo choàng zen, đã bị tụt xuống khi đảnh lễ, khoác lại lên vai.Vị Lạt ma tsipathấy một vạt áo zenđã bị rách. Sau đó ảnh tượngkia biến mất.

Vài tuần sau, chính người thanh niên kia tìm đến,cho biết vị Lạt ma gyudđã gởi anh ta đến đây để xin học về khoa chiêmtinh.

Vị trapakia kể lại rằng vào lúc lâm hành,khi đang quỳ xuống đảnh lễ sư phụ - là vị Lạt ma gyud- thì anh ta nghesư phụ dặn dò: “Giờ đây, con sắp có thêm một sư phụ mới. Con nên đảnh lễ ngàiđi”, rồi đưa tay chỉ về hướng bắc, là nơi ở của vị Lạt ma tsipa.

Vị Lạt ma tsipathấy một vạt áo zencủa người môn đồ bị rách, giống như ảnh tượng ông đã thấy trước đó.

Tôi hỏi có phải vị Lạt ma gyud muốn thôngbáo cho người bạn đồng tu biết mình sắp gởi một đồ đệ đến hay không, nhưng vịLạt ma tsipanày không trả lời, bởi vì biến cố này vừa mới xảy ra, kể từkhi xảy ra, ông ta chưa có dịp trả lời cho bạn.

Tôi phải nói rằng, người Tây Tạng thường tỏ ra ítnhiệt tình trong việc tìm hiểu những hiện tượng tâm linh, và thái độ này của họcũng chẳng hề cản trở các công trình nghiên cứu. Đối với họ thì những hiệntượng đó tuy khác thường, nhưng cũng không phải là cái gì quá đỗi dị thường,đến mức khiến những người chứng kiến hay nghe kể lại phải vội vã tìm hiểu mộtcách nghiêm túc. Trên thực tế, đầu óc họ không bị xáo trộn vì những khái niệmchặt chẽ về quy luật tự nhiên, hay về những điều khả thihoặc bất khảthi, như người phương Tây.

Phần lớn người Tây Tạng, kẻ trí thức cũng như ngườithất học, mặc nhiên chấp nhận rằng tất cả đều khả thi đối với những ai biếtthích nghi, và do đó, những hiện tượng dị thường, mà họ chứng kiến, chỉ khơidậy trong họ cảm giác ngưỡng mộ đối với người khéo tạo ra chúng mà thôi.



(1)Bản dịch được thực hiện theo nguyên bản tiếng Pháp Mystiqueset Magicciens du Tibet, NXB. PLON, 1929, các trang 236-248. Những ghi chúlà của người dịch, trừ ghi chú có ghi (T.g) là của nguyên tác.

(2)Nguyên là chữ rlung, (đọc là lung) vừa cónghĩa là “không khí” vừa có nghĩa là “gió”, đôi khi còn có nghĩa là “hơi thở”nữa. Ta có thể hiểu “rlung gi teng latheo nghĩa “nương theo cánhgió” hoặc “truyền qua không khí”… (T.g).

(3)Người Tây Tạng cưỡi ngựa trên yên gỗ có lót thảm (T.g).

(4) Một loại khăn vải mà người Tây Tạng dùng tặng nhau để bày tỏ thiệnchí và lòng tôn trọng (T.g).


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/08/2024(Xem: 603)
Quí vị hãy phát tâm từ bi vô lượng đối với chúng sinh, nghĩ rằng: "Thật tốt biết bao nếu tất cả chúng sinh đều thoát khỏi khổ đau và thoát cả nguyên nhân tạo khổ". Rồi gánh hết mọi vấn đề của chúng sinh về phần mình, nhất là các loại khổ đau đến từ bịnh tật, từ mối tương giao giữa người và người. Nhận lãnh mọi khổ đau cùng nguyên nhân tạo khổ, mọi mê muội ám chướng, mọi điều không ai mong cầu, gom thành một khối ô nhiễm, cho thấm hết vào vọng tâm chấp ngã, khiến vọng tâm chấp ngã bị phá hủy hoàn toàn, và rồi cái "ngã" mà vọng tâm bám vào, tưởng rằng quý giá lắm, bây giờ trở thành không [không có tự tánh]. Trụ tâm trong tánh Không càng lâu càng tốt. Quán sự nhận về như vừa nói trên, rồi quán về tánh Không. Thỉnh thoảng có thể mở tâm từ ái để hồi hướng tất cả, thân mình, sở hữu, cùng ba thời công đức của mình về con người khác, đặc biệt là cho những người ghét quý vị. Nhưng chủ yếu vẫn nên dành thời gian để quán sự nhận về.
17/04/2024(Xem: 1219)
Cư sĩ Huyền Thanh, thế danh là Nguyễn Vũ Tài, sinh ngày 01/04/1958 tại Thị xã Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Thân phụ tên là Nguyễn Vũ Nhan, nguyên quán tại làng Xối Đông, tổng Thần Lộ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Thân mẫu tên là Vũ Thị Ni, nguyên quán tại làng Lịch Diệp, tỉnh Nam Định. Thuở nhỏ Nguyễn Vũ Tài đã Quy Y với Hòa Thượng Thích Thanh Chiên, Trụ trì chùa Hải Vân ở khu Ấp Chợ, xã Tân Sơn Hòa, tỉnh Gia Định và được Thầy ban cho Pháp Danh là Huyền Thanh. Năm 1978, tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm khoa Toán Lý và đi dạy môn Toán cấp II từ năm 1979 cho đến năm 2003 thì chuyển qua làm công tác Giám Thị ở các trường Trung học Cơ sở Ngô Quyền quận Tân Bình, trường Trung học Cơ Sở Hoàng Hoa Thám quận Tân Bình, và trường Trung học Cơ Sở Nguyễn Gia Thiều quận Tân Bình cho đến khi chấm dứt công tác vào năm 2010.
25/03/2022(Xem: 6007)
Đừng quên vị bổn sư; Hãy cầu nguyện với người trong mọi lúc. Đừng tán tâm; Hãy nhìn vào tinh túy của tâm. Đừng quên cái chết; Hãy để nó thúc giục con tu tập Pháp. Đừng quên chúng sanh; Với lòng bi mẫn, hãy hồi hướng công đức cho chúng sanh, và cầu nguyện với lòng khát vọng.
02/12/2021(Xem: 19134)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
03/09/2021(Xem: 37546)
(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm) 1. TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN: Án, lam xóa ha. (3 lần) 2. TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN: Tu rị, Tu rị, Ma ha tu rị, Tu tu rị, Ta bà ha. (3 lần) 3. TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN Án, Ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần) 4. PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN: Án, Nga nga nẵng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần) 5. AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN: Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, Án, độ rô độ rô, địa vỷ ta bà ha (3 lần) Hộ pháp, Vĩ Đà thị chứng minh Thân trụ Phật tiền Tâm Tư nguyện Tưởng bằng bí chú đắc oan linh Hà chơn bất thức trì niệm Luật Thiên kinh vạn quyển vô nhất tự Nẳng mô tô tất đế, đa rị, đa rị, mạn đà, mạn đà, ta bà ha (3 lần)
01/11/2020(Xem: 18873)
1/Đệ nhất đại nguyện: quốc vô ác đạo. Đại nguyện thứ nhất: Cõi Cực-lạc không có các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy) 2/Đệ nhị đại nguyện: bất đọa ác đạo. Đại nguyện thứ hai: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không đọa vào các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 3/ Đệ tam đại nguyện: thân chơn kim sắc. Đại nguyện thứ ba: Thân của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có sắc vàng. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 4/ Đệ tứ đại nguyện: hình sắc tương đồng. Đại nguyện thứ tư: Hình sắc của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều bình đẳng, không đẹp xấu khác nhau. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 5/Đệ ngũ đại nguyện: túc mạng trí thông. Đại nguyện thứ năm: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có túc mạng thông, biết rõ các kiếp quá khứ. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)
04/03/2020(Xem: 40094)
Lễ Dâng Y Kathina & Cúng Dường Phẩm Vật chư Tăng tại Bồ Đề Đạo Tràng India, Nhân Lễ tưởng niệm ngày đức Phật (thái tử Siddartha Gautam) xuất gia, được sự trợ duyên của chư Phật tử và quí thiện hữu hảo tâm, chúng tôi đã thực hiện một buổi Dâng Y Kathina và cúng dường phẩm vật đến chư Tăng thuộc 3 truyền thống Mật tông Kim cương thừa (金剛乘, vajrayāna), truyền thống chư Tăng Nguyên Thủy các nước Theravada và chư Tăng Ni truyền thống Đại Thừa (Mahayana) tại Bồ Đề Đạo Tràng.
26/11/2019(Xem: 8924)
Giáo dục, phạm vi rộng, có nghĩa truyền thừa kinh nghiệm, hiểu biết, kiến thức chuyên môn, kiến thức tổng quát… Mỗi chuyên ngành có những đặc tính cần truyền thụ cho lớp kế thừa, đó là giáo dục chuyên môn. Trong nhà Phật, việc giáo dục chú hướng vào nhận thức bản thể, hiểu biết về thân tâm, nắm rõ luật nhân quả, cải tạo nhân cách và làm chủ cảm xúc,làm chủ tâm hành, có nghĩa hành giả cần làm chủ sanh tử trong cõi tử sanh.
28/08/2019(Xem: 7293)
Lần đầu tiên chùa Đức Viên (2440 McLaughlin Avenue, San Jose, California) hội đủ duyên lành cung thỉnh chư Tăng tu viện Namgyal (Ithaca, New York) kiến tạo một đàn tràng thiêng liêng bằng cát màu tuyệt đẹp trong hai tuần (từ ngày 12/8 đến ngày 24/8/2019). Đó là Kalachakra Mandala Thời Luân (Bánh Xe Thời Gian), biểu tượng cho vũ trụ để cầu nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc. Thời Luân là cung trời an lành, nơi trú xứ của các vị Thánh Hộ Phật, mang lại nguồn an lạc, có năng lực gia trì mạnh mẽ của chư Phật, và thanh tịnh hóa tại địa điểm khởi tâm cung thỉnh. Trong Thời Luân có 28 con thú trên lưng nở hoa sen là: 7 con heo, 7 con ngựa, 7 con voi và 7 con sư tử kéo xe chở các vị Thánh Hộ Phật.
07/08/2019(Xem: 4817)
Tỉnh Thức Rực Rỡ: Đọc Sách “Vivid Awareness”, Bài này sẽ giới thiệu và tóm lược tác phẩm “Vivid Awareness: The Mind Instructions of Khenpo Gangshar” (sẽ viết tắt là: VA) của đại sư Khenchen Thrangu, dựa vào bản Anh dịch của David Karma Choephel, ấn bản 2011, nhà xuất bản Shambhala. Sách này nói về một Thiền pháp của Kim Cang Thừa. Lý do chọn sách này vì qua đây có thể hiểu được và thâm nhập được Thiền Tông – tức là Thiền Trúc Lâm của Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com