Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền quán và nghiện ngập

25/07/201104:38(Xem: 7241)
Thiền quán và nghiện ngập

THIỀN QUÁN VÀ NGHIỆN NGẬP
Kiran Đỗ Hoàng Tùng dịch
Nguyễn Văn Nhật hiệu đính

Những nguyên nhân dẫn đến sự nghiện ngập và thiền quán có thể đối trị thói nghiện ngập như thế nào

Một trong những bước đầu tiên trong việc đối phó với thói nghiện ngập là tìm ra nguyên nhân mang tính cảm xúc của nó, cho dù đó là sự sợ hãi, trầm cảm, lo lắng, hay bi quan. Rất nhiều lần, những suy nghĩ và niềm tin ô nhiễm này đến từ những điều mà tôi gọi là "tâm thiếu thốn." Trong tâm thức thiếu thốn của mình, chúng ta cảm thấy rằng trạng thái bất hạnh hiện tại của mình chỉ có thể được khắc phục nếu chúng ta có tiền bạc, có công việc, có mối quan hệ, có sự công nhận, hay có quyền lực… mà chúng ta đã có rồi lại bị mất, hoặc chưa bao giờ có và rất ao ước có. Thường thì chúng ta tự gây đau khổ cho mình khi chúng ta khát khao điều gì đó nằm ngoài tầm với hoặc bám chấp một cách vô vọng vào điều gì đó đã mất đi. Đôi khi, tâm yếu đuối liên quan đến việc bám chấp vào một điều gì đó tiêu cực: một niềm tin không lành mạnh rằng mọi chuyện nên là thế nào hoặc đáng ra phải thế nào; một cảm xúc không lành mạnh như giận dữ, buồn bã, hay ghen tị. Sự thực tập thiền quán giúp chúng ta phát triển khả năng nhìn thấy một cách rõ ràng chính xác ta đang bám chấp vào cái gì để ta có thể buông bỏ sự bám chấp đó và chấm dứt khổ đau. Các lãnh vực tiềm ẩn của sự đối kháng xuất hiện trong nhận thức của chúng ta có thể được ghi nhận và được xem xét về sau, sao cho chúng ta có thể thực hiện những lựa chọn có ý thức để buông bỏ chúng.

Không bao giờ con người có thể hoàn toàn tránh né được tâm thiếu thốn hay bất kỳ trở ngại nào khác. Ham muốn là một phần của công cuộc làm người. Nó khiến chúng ta phải cố gắng hướng đến việc cải thiện cuộc sống và thế giới của mình, đã dẫn đến rất nhiều những khám phá và phát minh cung cấp cho chúng ta một cuộc sống có phẩm chất cao hơn. Tuy nhiên, bất chấp tất cả những gì chúng ta có thể đạt được và sở hữu, chúng ta vẫn bị thuyết phục rằng mình sẽ không hạnh phúc hay mãn nguyện trừ khi có được nhiều thứ hơn nữa. Niềm tin không lành mạnh này có thể dẫn đến sự ganh đua và cảm thấy giận dữ hay ghen tị với những người dường như có một cuộc sống dễ dàng hơn.

Nếu tôi có một bệnh nhân đang dùng ma tuý, hay kể cả một loại thực phẩm nào đó, để điều khiển tâm trạng của mình, đầu tiên, để bẻ gãy thói quen đó, tôi sẽ giới thiệu người ấy đến gặp một chuyên gia về dinh dưỡng, một nhà tâm thần học, một nhà dược lý học thần kinh, hoặc một bác sĩ điều trị theo liệu pháp chỉnh thể, chẳng hạn như các bác sĩ thực hành khuynh hướng điều trị cùng lúc về tinh thần và thể chất của bệnh nhân. Thêm nữa, tôi sẽ giới thiệu với bệnh nhân đó các phương pháp như thiền quán, thực tập yoga, và những bài thể dục thông thường…, vì chúng đều rất hữu ích trong việc điều chỉnh tâm trạng. Những loại hoạt động này làm hạ nồng độ cortisol (loại kích thích tố gây căng thẳng) và làm tăng nồng độ interleukin (chất sát khuẩn trong bạch cầu có tác dụng tăng cường hệ thống miễn dịch và cung cấp một năng lượng lớn hơn cho cơ thể) trong máu, đồng thời tổ chức cho có hiệu quả mọi năng lực của cơ thể để tự thanh lọc những chất độc hoá học, chẳng hạn như a-xít lactic trong cơ bắp và mạch máu, những yếu tố có thể ảnh hưởng đến những cơ quan tiếp nhận chất dẫn truyền thần kinh và làm thay đổi tâm trạng của con người.

Sự thách thức đối với việc thay đổi những thói quen nghiện ngập là nỗi sợ hãi rằng con người không thể thay đổi những gì có thể đẩy y đến sự chối bỏ thực tại và khiến y giảm hết mức những hậu quả của những hành vi vô ích. Dù con người có khám phá bất kỳ điều gì về mình và dù khám phá đó có đau đớn tới đâu, thì những sự đột phá vẫn luôn khả thi. Sự nghiên cứu về thiền quán chỉ ra rằng những đặc điểm hình thành khí chất và tính cách con người từng được chúng ta nghĩ là không thể biến đổi thực ra có thể được biến đổi một cách đáng kể. Bằng cách rèn luyện lại tâm trí thông qua thực tập thiền quán, con người sẽ tạo ra những hệ mạch thần kinh mới. Nếu là một kẻ hung hăng, kẻ đó có thể tìm thấy những phương cách xoa dịu khía cạnh này của chính mình, trở nên quyết đoán và dứt khoát với những ranh giới của mình mà không rơi vào một định kiến mang tính cạnh tranh và có thể đến mức thù địch vốn sẽ làm hại kẻ đó.

Nhiều năm qua, các nhà khoa học từng tin rằng sự mềm dẻo của não bộ, nghĩa là cái khả năng tạo ra những cấu trúc mới và khả năng học hỏi của não bộ, bị hạn chế sau thời thơ ấu. Tuy nhiên, hoạt động nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng chúng ta có thể thay đổi cấu trúc não bộ và gặt hái những lợi ích tốt đẹp trong giai đoạn trưởng thành. Sara Lazar, nhà nghiên cứu tại bệnh viện Đa khoa Massachusetts, khám phá rằng người ta càng thực tập thiền quán, phần giữa của vỏ não trước trán và phần giữa vùng thuỳ đảo sẽ càng dày lên. Việc thay đổi tâm trí (hay quá trình tư duy) của con người thực sự dẫn đến sự thay đổi trong não bộ. Lazar thấy rằng, trong khi những người đã thực tập thiền từ mười đến hai mươi năm rất thành thạo trong việc nhanh chóng đạt tới trạng thái tập trung và nhận thức tỉnh giác, những người mới thực tập thiền ít hơn bốn giờ một tuần cũng có thể đạt được và duy trì trạng thái tỉnh giác, đem đến khả năng sáng tạo, hay cái được gọi là “ý thức rộng mở”. Nhà nghiên cứu này cũng khám phá ra rằng kể cả những người bắt đầu hành thiền vào những năm đầu của tuổi 20 có thể đạt được trạng thái tập trung và tuệ giác nội quán (điều có thể được gọi là “sức mạnh nội tâm”) ngang với những người đã hành thiền lâu năm. Việc người ta đã bỏ ra bao nhiêu thời gian trên toạ cụ không thành vấn đề, mà lòng quyết tâm và sự tập trung chú ý là hai chìa khoá để đạt được những trạng thái này. Từ kinh nghiệm và công việc của bản thân, tôi biết rằng thường xuyên thực tập thiền quán cho phép chúng ta gạt sang một bên những điều phiền nhiễu và vào được trạng thái chuyển hóa của tâm thức rộng mở.

Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ, chịu trách nhiệm điều chỉnh cảm xúc. Khi hạch hạnh nhân được thư giãn, hệ thần kinh đối giao cảm sẽ vô hiệu hoá các phản ứng lo lắng. Nhịp tim hạ xuống, hơi thở trở nên sâu lắng và chậm rãi hơn, cơ thể ngừng giải phóng cortisol và adrenaline vào mạch máu; các kích thích tố gây căng thẳng này cung cấp cho chúng ta sinh lực nhạy bén trong những thời điểm nguy hiểm nhưng lại gây những ảnh hưởng tai hại lên cơ thể trong thời gian dài nếu chúng trở nên quá phổ biến. Qua thời gian, thiền quán sẽ thực sự làm dày lên khu vực hai bên và trước trán thuỳ đảo phải của não bộ, khu vực chịu trách nhiệm về sự lạc quan và cảm giác an lạc, rỗng rang, triển vọng. Khu vực này cũng liên hệ tới sự sáng tạo và gia tăng ý thức tò mò, cũng như khả năng quán chiếu thể cách hoạt động của tâm trí.

Bằng cách xây dựng nên những kết nối thần kinh mới giữa các tế bào não, chúng ta tạo ra các mạch mới trong não bộ; và với mỗi kết nối thần kinh mới, bộ não đang thực sự học hỏi. Điều đó cũng giống như là chúng ta đang tăng dung lượng bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên (RAM) của máy tính vậy, cho nó thêm chức năng. Trong tác phẩm The Mindful Brain (Não bộ tỉnh thức), nhà khoa học thần kinh hàng đầu Daniel Siegel định nghĩa tâm như là “một tiến trình kiểm soát dòng năng lượng và thông tin.” Nghiên cứu não bộ gần đây của ông đã chỉ ra rằng “nơi nào các nơ-ron kích hoạt, thì tại nơi ấy chúng có thể tạo ra các mạch mới”; nói khác đi, chúng tạo nên những con đường hay cấu trúc thần kinh mới trong não bộ. Ông mặc nhiên công nhận rằng một trong những lợi ích của việc thực tập thiền quán là đó là quá trình tạo ra những hệ mạch thần kinh mới cho việc tự quan sát, lạc quan, và hạnh phúc. Thông qua thiền quán, chúng ta thắp sáng và góp phần gây dựng vỏ não trước trán bên trái, vốn liên quan đến sự lạc quan, sự tự quan sát, và lòng từ bi, cho phép chúng ta chấm dứt tình trạng bị thống trị bởi vỏ não trước trán bên phải, vốn liên quan đến sự sợ hãi, trầm cảm, lo âu, và bi quan. Kết quả là sự tự nhận thức và ổn định của tâm trạng được tăng lên trong khi những phán xét khắc nghiệt của chúng ta về người khác và chính mình giảm xuống. Bằng việc dành sự chú ý, quyết tâm và nỗ lực cho việc giữ chánh niệm mỗi ngày, chúng ta biết cách làm chủ tâm trí và mở ra cánh cửa cho sự sáng tạo luôn sẵn có trong ý thức rộng mở.

Hoàn toàn có khả năng là những hiệu quả tương tự cũng có thể đạt được thông qua những phương pháp thực hành khác dường như cũng có khả năng khơi mở những dòng thần kinh mới; chẳng hạn tập thái cực quyền, tập yoga hay những cách thiền tập khác; tuy nhiên, nhờ vào những nghiên cứu tìm hiểu về thiền quán, ngày nay chúng ta biết rằng con người có thể thực sự tái cơ cấu bộ não và tác động đến cách thức hoạt động của nó, cũng như cái cách mà bộ não gây ảnh hưởng lên cơ thể.

Nguồn: Ronald Alexander, Ph.D., Mindfulness Meditation & Addiction

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/06/2024(Xem: 1533)
“Kiếp xưa ắt có nhân duyên, Nếu không ai dễ chống thuyền gặp nhau”. HT đã giới thiệu, trên 50 năm tôi rời khỏi Huế từ Tết Mậu Thân đi du hóa, tu học phương xa, luôn vọng về quê hương đất Tổ, nơi chôn nhau cắt rốn của Tổ tiên ông bà, nơi đã có nhiều kỉ niệm của thuở ấu thơ tu học tại Huế, sinh hoạt tại Huế, trên 50 năm vắng mặt, chỉ có năm này với tuổi đã 87, năm nay Lễ Phật Đản của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tổ chức tại Chùa Phật Ân, cử hành sớm vào ngày 12 vừa rồi
04/06/2024(Xem: 2793)
Cùng toàn thể giới tử thọ trì Bát quan trai giới một ngày một đêm tại trú xứ Tăng già-lam Phước duyên, thành phố Huế, hiện diện quý mến. Một ngày một đêm quý vị ở trong Tịnh giới với niềm tin thanh tịnh, kiên cố, bất hoại đối với Tam bảo. Nhờ niềm tin này mà quý vị không để cho Giới pháp của mình bị sứt mẻ ở trong đi, ở trong đứng, ở trong nằm, ở trong ngồi, ở trong sự nói năng, giao tiếp. Quý vị có được niềm tin này là nhờ quý vị nuôi lớn sáu tính chất của Tam bảo, khiến cho ba nghiệp của quý vị được an tịnh, an tịnh về thân hành, an tịnh về ngữ hành, an tịnh về ý hành. Sáu tính chất của Tam bảo, quý vị phải thường quán chiếu sâu sắc, để thể nhập và tạo ra chất liệu cho chính mình, ngay đời này và đời sau. Sáu tính chất của Tam bảo gồm:
30/04/2024(Xem: 2317)
Những lời trích dẫn trên đây thật đanh thép và minh bạch, chữ vu khống trong câu trích dẫn trên đây trong bản gốc bằng tiếng Pali là chữ abbhācikkhanti (abhi + ā + cikkh + a), các tự điển tiếng Anh dịch chữ này là accusation, calumny, slander…, có nghĩa là kết án, phỉ báng, vu khống…. Thế nhưng trong khi viết lách hay thuyết giảng đôi khi chúng ta không nghĩ đến những lời cảnh giác trên đây của Đức Phật. Sau hơn hai mươi lăm thế kỷ quảng bá, xuyên qua nhiều vùng địa lý, hòa mình với nhiều nền văn minh và văn hóa khác nhau, nền Tư tưởng và Giáo huấn của Đức Phật đã phải trải qua nhiều thử thách, thích ứng với nhiều dân tộc, do đó thật khó tránh khỏi ít nhiều biến dạng và thêm thắt. Thế nhưng thực tế cho thấy trong suốt cuộc hành trình kỳ thú và vĩ đại đó – nếu có thể nói như vậy – nền Tư tưởng và Giáo huấn đó của Đức Phật vẫn đứng vững và đã góp phần không nhỏ trong công trình cải thiện xã hội, nâng cao trình độ văn hóa, tư tưởng và mang lại ít nhất là một chút gì đó lý tưởng hơn, cao đ
30/04/2024(Xem: 2546)
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu: “Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” Có nghĩa là: “Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
18/02/2024(Xem: 3072)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 6017)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
20/01/2024(Xem: 2223)
Thông thường người ta vào học Phật ít nhiều cũng do có động lực gì thúc đẩy hoặc bởi thân quyến qua đời, hoặc làm ăn thất bại, hoặc hôn nhân dở dang v.v... nhưng cũng không ít người nhân nghe giảng pháp hay gặp một quyển sách khế hợp căn cơ liền phát tâm tu hành hay tìm hiểu học Phật pháp. Phần lớn đệ tử xuất gia hoặc tại gia của Hòa Thượng cũng vì cảm mộ pháp giải của Ngài mà quy y Phật. Quyển vấn đáp này góp nhặt từ những buổi giảng thuyết trong các chuyến hoằng pháp của Hòa Thượng, hy vọng cũng không ngoài mục đích trên, là dẫn dắt người có duyên vào đạo hầu tự sửa đổi lỗi lầm mà giảm trừ tội nghiệp.
20/01/2024(Xem: 2366)
Năm xưa khi Phật thuyết kinh, hoàn toàn dùng khẩu ngữ vì bấy giờ nhân loại chưa có chữ viết (xứ Ấn). Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử Phật mới kết tập laị những gì Phật dạy để lưu truyền cho đời sau. Đạo Phật dần dần truyền sang các xứ khác, truyền đến đâu thì kinh điển cũng được phiên dịch sang ngôn ngữ của xứ ấy. Lúc ban đầu kinh Phật được ghi chép bằng tiếng Phạn ( Sancrit, Pali ) sau đó thì dịch sang tiếng: Sinhale, Pakistan, Afghanistan, tiếng Tàu, Thái, Nhật, Hàn, Việt… và sau nữa là tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha…
20/12/2023(Xem: 2812)
Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ (Bạch X. Khỏe) định cư ở Hoa Kỳ từ năm 1991, hiện đang giảng dạy Hóa học và Hóa học danh dự cho Trường trung học Mira Loma tại thủ phủ Sacramento, CA. Ông quy y với Thiền sư Trừng Quang Thích Nhất Hạnh, có Pháp danh là Tâm Thường Định. Ông đã và đang giảng dạy về Lãnh đạo chánh niệm và phương thức mang chánh niệm vào học đường ở bang California từ năm 2014. Tiến sỹ Bạch cũng giảng dạy cho chương trình huấn luyện giáo viên. Ngoài ra, ông còn tham gia nhiều công việc xã hội trong cộng đồng. Tháng Ba 2023, TS Bạch Xuân Phẻ được Hiệp hội Giáo viên California (California Teachers Association) vinh danh vì những đóng góp giáo dục thực hành chánh niệm của ông. TS Bạch Xuân Phẻ cũng được trao Giải thưởng Nhân quyền người Mỹ gốc Á Thái Bình Dương năm 2023 của bang California (Human Right Awards).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com