Đánh giá đúng lý duyên khởi

09/01/201313:12(Xem: 4693)
Đánh giá đúng lý duyên khởi

dalailama-7a

ĐÁNH GIÁ ĐÚNG LÝ DUYÊN KHỞI
Đức Đạt Lai Lạt Ma
Tuệ Uyển chuyển ngữ



Vì không có hiện tượng nào
Là không duyên sinh
Nên không có hiện tượng nào là không
Trống rỗng sự tồn tại cố hữu
(Tất cả các pháp là vô tự tính)


- Căn Bản Trung Quán Luận của Long Thọ Được Gọi Là “Tuệ Trí”-


Như được giải thích trong chương trước, tất cả mọi hiện tượng cho dù vô thường hay thường, đều có những phần tử.  Những phần tử và toàn thể tùy thuộc với nhau, nhưng chúng dường như có thực thể riêng của chúng.  Nếu toàn thể và những bộ phận tồn tại trong cách mà chúng hiện diện đối với quý vị, quý vị phải có thể chỉ ra một tổng thể riêng biệt với những phần tử của nó.  Nhưng quý vị không thể làm như thế.

Có một sự mâu thuẩn giữa cách mà toàn thể và những bộ phận của nó xuất hiện và cách mà chúng thật sự tồn tại, nhưng điều này không có nghĩa là không có những tổng thể, với vì nếu những tổng thể không hiện hữu, quý vị không thể nói về điều gì đấy hiện diện như một phần của bất cứ điều gì.  Kết luận này phải là có những tổng thể nhưng sự tồn tại của chúng được thiết lập trong sự lệ thuộc trên những phần tử của nó – chúng không tồn tại một cách độc lập.  Như Căn Bản Trung Quán Luận gọi là “Tuệ Trí” của Long Thọ nói:

Rằng điều gì sinh khởi một cách lệ thuộc
Nó không là một với điều ấy, trên thứ mà nó tùy thuộc
Và cũng không khác một cách cố hữu với nó.
Vì thế, nó không phải không có gì nhưng không tồn tại một cách có tự tính.

LÝ DUYÊN KHỞI HOẠT ĐỘNG NHƯ THẾ NÀO

Phụ thuộc hay độc lập: không có cách lựa chọn nào khác.  Khi điều gì là một, thì một cách xác định nó không phải là thứ khác.  Vì phụ thuộc hay độc lập là một sự phân đôi, khi quý vị thấy rằng điều gì đấy không thể là độc lập, hay không biểu hiện dưới năng lực của chính nó, thì không có lựa chọn nào khác mà phải thấy nó là lệ thuộc.  Biểu hiện phụ thuộc là không biểu hiện dưới năng lực của chính nó, [tự nó là trỗng rỗng].  Hãy nhìn dưới cách này:

Một cái bàn phụ thuộc trên những phần tử của nó cho sự tồn tại của nó, vì thế chúng ta gọi sự tập họp những phần tử của nó là vấn đề căn bản mà trên đấy nó được thiết lập.  Khi chúng ta nghiên cứu phân tích để cố gắng tìm kiếm cái bàn này xuất hiện trong tâm thức chúng ta giống như nó tồn tại một cách độc lập, chúng ta phải tìm kiếm nó trong căn bản này – những cái chân, cái mặt bàn, v.v…  Nhưng không  phải điều gì trong những phần tử này là cái bàn như vậy.  Do thế, những thứ này không là cái bàn trở thành cái bàn trong sự lệ thuộc trên tư tưởng; một cái bàn không tồn tại trong tự bản chất của nó.

Từ quan điểm này, cái bàn là điều gì đấy sinh khởi, hay tồn tại một cách phụ thuộc.  Nó phụ thuộc trên những nguyên nhân nào đấy; nó phụ thuộc trên những bộ phận của nó; và nó phụ thuộc trên tư tưởng.  Đây là ba mô thức của lý duyên khởi.  Trong những điều này, một nhân tố quan trọng hơn là tư tưởng đã đặt tên cho đối tượng.

Tồn tại trong sự phụ thuộc trên nhận thức là ý nghĩa vi tế nhất của lý duyên khởi (Ngày nay, những nhà vật lý học khám phá rằng những hiện tượng không tồn tại một cách khách quan trong tự nó và của chính nó mà tồn tại trong phạm vi liên hệ với người quán sát.)  Thí dụ, “cái tôi” của Đạt Lai Lạt Ma phải ở trong vùng này, thân thể của tôi; không có nơi nào khác mà nó có thể được tìm thấy.  Điều này rõ ràng.  Nhưng khi quý vị khảo sát trong vùng này, quý vị không thể tìm thấy một “cái tôi” có thực chất.  Tuy nhiên, Đạt Lai Lạt Ma là một bậc trượng phu, một tu sĩ, một người Tây Tạng, là người có thể nói, uống, ăn, và ngủ.  Điều này đủ để chứng tỏ rằng ông ấy tồn tại, mặc dù không thể tìm thấy được ông ấy.

Điều này có nghĩa là không có điều gì được tìm thấy là “cái tôi”, nhưng sự kiện này không hàm ý rằng “cái tôi” không tồn tại.  Làm sao lại như thế?  Điều ấy thật là ngớ ngẫn.  “Cái tôi” thật tồn tại một cách xác định, nhưng khi nó tồn tại tuy thế lại không thể tìm thấy được, chúng ta phải nói rằng nó sinh khởi trong sự lệ thuộc trên tư tưởng.  Nó không thể được đặt trong bất cứ cách nào khác.

TÍNH KHÔNG KHÔNG CÓ NGHĨA LÀ KHÔNG CÓ GÌ

Không có câu hỏi rằng con người và sự vật tồn tại; câu hỏi là thế nào, hay trong phương cách gì, mà chúng tồn tại.  Thí dụ khi chúng ta nhận xét về một bông hoa và nghĩ, “Bông  hoa này có một hình dáng đáng yêu, màu sắc dễ thương, và mịn màng biết bao,”dường như giống rằng có điều gì đấy cụ thể sở hữu những phẩm chất này về hình dáng, màu sắc và cấu trúc mịn màng.  


Khi chúng ta nhìn vào trong những phẩm chất này, cũng như trên những phần tử của bông hoa, chúng dường như là những phẩm chất hay những bộ phận của bông hoa, chẳng hạn như màu sắc của bông hoa, hành dáng của bông hoa, cuống hoa, và cánh hoa – giống như có một bông hoa sở hữu những phẩm chất hay những bộ phận này.

Tuy thế, nếu bông hoa thật sự tồn tại trong cách mà nó xuất hiện, chúng ta phải có thể nêu lên điều gì đấy riêng lẻ với tất cả những phẩm chất và những bộ phận này mà nó là bông hoa.  Nhưng chúng ta không thể.  Một bông hoa như thế không tìm thấy được trong sự phân tích, hay qua những dụng cụ khoa học khác, mặc dù trước đấy nó dường như thật là cụ thể, thật có thể khám phá được.  Bởi vì bông hoa có những tác động, nó tồn tại một cách thật sự, nhưng khi chúng ta điều tra để tìm kiếm một sự tồn tại của bông hoa phù hợp với những ý tưởng của chúng ta về nó, điều đó là hoàn toàn không thể tìm thấy được.

Điều gì đấy tồn tại một cách thật sự từ chính nó phải trở nên rõ ràng hơn khi được phân tích – nó phải được tìm thấy một cách rõ ràng.  Nhưng ở đây là trường hợp ngược lại.  Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là nó không tồn tại, vì nó có ảnh hưởng – nó tạo nên những tác động.  Sự kiện rằng nó không được tìm thấy dưới sự phân tích chỉ để biểu lộ rằng nó không tồn tại với cách mà nó xuất hiện đến những giác quan của chúng ta và đến tư tưởng của chúng ta – đấy là, nó được được thành lập một cách cụ thể trong chính nó.

Nếu không tìm ra những đối tượng khi chúng được phân tích có nghĩa là chúng không tồn tại, sẽ không có chúng sinh, không có Bồ Tát, không có Phật, không có điều gì thanh tịnh, và không có điều gì bất tịnh.  Thì sẽ không cần đến giải thoát; không có lý do gì để thiền quán về tính không.  Tuy thế, rõ ràng con người và sự vật hổ trợ và làm tồn hại, rằng vui sướng và đớn đau hiện hữu, rằng chúng ta có thể giải thoát chính mình khỏi khổ đau và đạt đến hạnh phúc.  Thật là khờ dại khi phủ nhận sự hiện hữu của con người và sự vật khi chúng ta rõ ràng bị ảnh hưởng bởi những thứ ấy.  Ý tưởng rằng con người và sự vật không tồn tại là bị phủ nhận rõ ràng; nó là ngu ngơ.

Học giả - hành giả du già Ấn Độ, Long Thọ Đại Sĩ chứng minh rằng những hiện tượng là trống rỗng sự tồn tại cố hữu (không có tự tính) bằng sự kiện rằng chúng là duyên khởi, sự phát sinh tương duyên.  Điều này tự nó là một dấu hiệu rõ ràng cho  quan điểm rằng những hiện tượng không tồn tại một cách cố hữu không phải là hư vô, không phải là không có gì cả.  Ngài không đưa ra lý do tại sao những hiện tượng là trống rỗng mà không thể biểu hiện chức năng; thay vì thế, ngài kêu gọi sự chú ý đến sự kiện rằng chúng sinh khởi phụ thuộc trên những nguyên nhân và điều kiện hay là nhân duyên.

Thiền tập quán chiếu

Lưu tâm:

1-    Phụ thuộc và độc lập là một sự đối kháng phân đôi (nhị nguyên).  Bất cứ điều gì tồn tại thì hoặc là phụ thuộc hay độc lập.

2-    Khi điều gì đấy là phụ thuộc, sự biểu hiện dưới năng lực của tự nó là trống rỗng.

3-    Không có nơi nào trong những phần tử của thân thể và tâm thức hình thành căn bản cho "cái tôi” mà chúng ta có thể tìm thấy “cái tôi”.  Do thế, “cái tôi” được hình thành không phải dưới năng lực của chính nó mà qua năng lực của những điều kiện khác – nguyên nhân của nó, những phần tử của nó, và tư tưởng.

Trích từ quyển How to See Yourself as You Really Are của Đức Đạt Lai Lạt Ma 
Tuệ Uyển chuyển ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2025(Xem: 758)
Các học thuyết xã hội và giáo lý tôn giáo đã tranh luận rất nhiều về sự giải phóng con người, và tất cả đều hướng tới một thế giới tự do lý tưởng vì tự do là khát vọng muôn đời của loài người. Thế giới lý tưởng đó là thiên đường đầy hoa trái, chỉ có hạnh phúc, tình yêu và không có hận thù theo Cơ đốc giáo1 và cả Hồi giáo2. Nho giáo, Đạo của sĩ phu của quân tử, thì cho rằng xã hội lý tưởng là một thế giới lý tưởng của kẻ sĩ, của bậc quân tử (Trần Trọng Kim, 1996, tr. 106)3.
25/08/2025(Xem: 823)
Kinh Kim Cang có tên gọi đầy đủ là “Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật” (Vajracchedika Prajna Paramita Sutra, tiếng Phạn) tương truyền được đức Phật thuyết giảng vào thời Bát Nhã, khoảng 20 năm sau ngày Phật Thành Đạo, và là 1 trong 600 quyển kinh thuộc hệ Đại Bát Nhã. Sau đó, kinh được đưa từ Ấn Độ sang qua Trung Quốc vào khoảng hậu bán thế kỷ thứ hai và được dịch từ Phạn văn sang Hán văn bởi nhiều vị dịch giả, trong đó bản dịch vào năm 401 của ngài Cưu Ma La Thập (344-413) được xem là phổ dụng nhất. Tổng số chữ (Hán tự) trong kinh này chỉ có 4,720 chữ, bao gồm 8 chữ tựa đề kinh. Điểm đặc biệt là bố cục kinh không có phân đoạn ra các chương, các phẩm
31/05/2025(Xem: 1770)
“Đào tạo thanh, thiếu, đồng niên trở thành người Phật tử chân chính nhằm xây dựng xã hội theo tinh thần Phật giáo.” Mục đích của Gia Đình Phật Tử Việt Nam không phải là một khẩu hiệu suông. Đó là một tuyên ngôn giáo dục – tâm linh – xã hội sâu sắc. Từng từ trong câu mục đích là một viên gạch xây nên lý tưởng và phương hướng hoạt động của tổ chức. Để thực sự thực hành đúng vai trò Huynh Trưởng, chúng ta cần thẩm thấu từng khía cạnh sau:
31/05/2025(Xem: 952)
Trong đạo Phật, sự tự do nội tâm, tỉnh thức trong thực tại và giác ngộ cá nhân luôn được đặt lên hàng đầu. Đức Phật không lập giáo điều, không lập giáo hội,không áp đặt niềm tin, cũng không thiết lập một cơ chế tổ chức mang tính quyền lực hay mệnh lệnh. Ngài chỉ chỉ bày con đường như ngón tay chỉ mặt trăng: Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo – con đường đưa đến thân lạc tâm an, tỉnh thức mọi lúc và giải thoát khổ đau. Vì thế, tất cả những văn bản, văn kiện, định chế như Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam,
25/04/2025(Xem: 2290)
Đôi khi bạn rơi vào một diễn đàn Phật pháp trên Internet, bất ngờ lại thấy tranh cãi bộ phái, rằng chuyện Nam Tông thế này và Bắc Tông thế kia , rằng chuyện Thiền Tông bên ni và Tịnh Độ bên nớ, và những chuyện tương tự... khi người này nói rằng chỉ có họ đúng và người khác hẳn phải là sai. Ngay cả đôi khi bạn mở truyền hình ra xem, cũng bất ngờ khi thấy một vị sư hay một cư sĩ Phật tử nói những chuyện tương tự. Những tranh cãi hiện ra bất kể rằng họ cùng thờ Đức Phật, cùng công nhận các pháp ấn, cùng tu pháp Bát Chánh Đạo, nhưng một khác biệt nào đó đã được xem là lệch nghĩa. Dò lại kinh điển, chúng ta thấy rằng Đức Phật nói rằng người trí sẽ không thấy gì để tranh cãi nữa, vì tâm họ đã xa lìa cõi này.
22/04/2025(Xem: 2479)
Trong quá trình tiếp cận những vị đạo sư kính quý, người viết đã bao lần theo dõi từ ngày trên những chuyến hoằng pháp của quý Ngài hoặc trên đất Âu Châu, hay thi thoảng đến đất nước Hoa Kỳ để rồi đã tự hỏi : “Phải chăng việc hoằng pháp đòi hỏi sự chia sẻ và hợp tác giữa người nghe và người giảng?” Vì sao vậy ? Theo sự tham cứu người viết được biết : Chia sẻ là một đặc tính có sẵn trong mỗi con người chúng ta. Nó giúp chúng ta kết nối, tạo ra xã hội loài người, học hỏi lẫn nhau, phát triển, tăng cường tri thức thay đổi nhận thức xã hội tốt hơn, và thành công hơn trong cuộc đời ( Share là cách chúng ta dạy những gì chúng ta biết, thu nhận phản hồi củng cố kiến thức ta có và đồng thời giúp đỡ người khác (Information Acquisition).
19/10/2024(Xem: 4446)
Thân-Khẩu-Ý (身-口-意; P: Kāya-Vacī-Mano; S: Kāya-Vak-Mana; E: Body-Speech-Thought) là 3 thứ tách biệt nơi con người, nhưng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó, Ý là yếu tố có sự tác động đến cả Thân và Khẩu. Nếu một hành động của Thân hay lời nói của Khẩu mà không có Ý tác động vào thì khó mà có kết quả.
19/10/2024(Xem: 7310)
Tứ y pháp (四依法; S: Catuḥpratisaraṇa; E: The four reliances) là 4 pháp phương tiện quan trọng theo quan điểm của Phật giáo Bắc truyền, với mục đích giúp hành giả rõ biết pháp nào nên hoặc không nên nương tựa, nhằm thành tựu giác ngộ, giải thoát.
14/10/2024(Xem: 8012)
Bầu không khí chính trị trên thế giới hiện nay đang nóng bỏng vì khuynh hướng độc tài, cực đoan, chia rẽ, hận thù và cuồng vọng không thua kém gì bầu khí quyển của địa cầu đang nóng dần lên do khí thải nhà kính gây ra. Cả hai đều do con người tạo ra và đều là thảm họa cho nhân loại! Nhưng thảm họa này không phải là điều không thể giải quyết được, bởi lẽ những gì do con người gây ra cũng đều có thể do con người ngăn chận và hóa giải được. Cụ thể là hàng chục năm qua, Liên Hiệp Quốc đã nỗ lực kêu gọi, bằng các nghị quyết, các quốc gia cố gắng thực hiện các biện pháp giảm khí thải nhà kính, với các chính sách cắt giảm lượng tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch, gia tăng sản lượng xe chạy bằng điện năng, v.v… Dù kết quả chưa đạt được mức yêu cầu, nhưng cũng đã gây được ý thức và thể hiện quyết tâm của cộng đồng thế giới trong việc giải quyết thảm họa của khí thải nhà kính.