Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiếng Nói Của Con Tim Tĩnh Tâm

16/09/201109:03(Xem: 1028)
Tiếng Nói Của Con Tim Tĩnh Tâm
TIẾNG NÓI CỦA CON TIM TĨNH TÂM
Dr. Lý Văn Kim

Trong thời đại bây giờ, con người hình như có quá ít thời giờ để nghĩ đến riêng cho bản thân mình, do bởi quá sức bận rộn với cuộc sống, nghề nghiệp, mà phải lao động suốt ngày, đôi khi quên cả hơi thở của chính mình mà chỉ biết lo làm việc, tối tăm mặt mũi vì “trăm ngàn công việc”. Cho đến một hôm, tôi đã ngẫm nghĩ, nghe ngóng và do bởi quá bức xúc, tôi phải viết lên những thầm nghĩ của chính mình.

Tôi không phải là thi sĩ, văn sĩ cũng không phải là tu sĩ, tôi chỉ là một bác sĩ nha khoa, cũng là một người thầy thuốc, nên phải hành nghề, phải giúp đỡ chữa trị cho người quen, kẻ lạ và ngay cho cả bản thân mình. Nhưng tôi nhận định được rằng, thuốc men chữa trị chỉ trị được cái “đau” mà không chữa được cái “khổ”. Tôi mong được chia sẻ những thầm nghĩ để cùng với mọi người, chúng ta hãy lắng nghe “Tiếng nói của con tim mình”. Trái tim không phải dùng để suy nghĩ; trái tim là để yêu thương và nếu trái tim có nghĩ, thì chắc chắn nó không nghĩ như khối óc. Trái tim có cách nghĩ riêng của nó, mà nhiều khi khoi óc không sao hiểu được. Con người bây giờ dùng khối óc nhiều quá! Nhiều đến nỗi, người ta luôn luôn trong tình trạng muốn “điên cái đầu”. Có lẽ đến lúc chúng ta hãy thử lắng nghe tiếng nói của con tim mình.

Dù rằng máy computer, đã gắn liền thông tin liên lạc giữa các quốc gia nối trọn vòng trái đất, nhưng hình như chúng ta có quá ít thời gian để nghe tiếng nói của con tim mình. Chúng ta ngày càng xa nhau hơn, xa với người và xa cả với chính mình.

Một hôm, có chàng thi sĩ nhìn thấy một đóa hoa nở, chàng thi sĩ đó đã cúi đầu, tĩnh tâm và cảm thấy đóa hoa bỗng nhiên như nở một “nụ cười” tươi với chàng; rồi không hẳn chỉ cười, mà hình như đóa hoa đó còn đang nói chuyện với chàng. Người ta có thể nghĩ rằng chàng thi sĩ đó chắc bị điên, có điều chàng ta biết rất rõ, là chàng ta đã nghe được tiếng nói tận con tim mình.

Khi chúng ta nghe được tiếng nói của con tim, thì tâm ý sẽ quên đi những quan niệm hẹp hòi, đố kỵ, và giúp cho chúng ta dễ có khả năng hòa đồng, giúp đỡ, bố thí, làm phước, có trách nhiệm hơn với chính mình, biết thương mình, thương người, thương cuộc sống và biết thưởng thức cuộc sống với chất lượng cao hơn, không phải chỉ là giàu có hơn, danh vọng hơn, thành công hơn, mà là có hạnh phúc hơn, biết tha thứ và biết “buông xã”.

Do bởi có quá nhiều bức xúc trong cuộc sống, nên tôi viết lên những lời chân thành, cảm nghĩ của con tim mình, để được sống sảng khoái hơn. Nhưng tôi đã quên đi một điều rất tầm thường, đó là tôi không biết thở cho đúng cách tôi đã để hết tâm trí mà viết, cũng giống như các bạn, quá chú tâm vào công việc và chúng ta đã quên đi “phương pháp thở chánh niệm”.

Trong suốt đời người, “sự sinh tử” đã xẩy ra quá nhiều lần, mà không một ai trong chúng ta lại để ý đến. Thử nghĩ xem, chỉ riêng về máu trong cơ thể, mỗi giây đã có nhiều triệu tế bào hồng cầu (red blood cells) bị hủy diệt và độ chừng ba tháng, một “Hệ thống máu mới đã được sinh ra”, nói một cách khác “Một con người mới” đã được ra đời trong mỗi chúng ta.

Từ khi, tôi biết chú ý đến hơi thở và biết lắng nghe tiếng nói của con tim mình, tôi biết buông xả hơn, cười tươi hơn và biết thở đúng hơn.

Phương pháp thở chánh niệm, kết hợp với tiếng nói của con tim, sẽ làm cho tâm hồn chúng ta được hồn nhiên hơn. Nói một cách khác, “chốn thiên đàng hoặc cõi niết bàn” thật ra là ở ngay trong tâm của chúng ta mà thôi, chứ không phải tìm kiếm ở đâu xa đúng như lời của vua Trần Nhân Tông đã nói: “Gia Trung hửu bảo hưu tầm mích”.

Số lượng kinh Phật nếu muốn học hết, có lẽ học đến mười kiếp cũng chưa hết. Nhưng Đức Phật đã nói: chỉ cần chúng ta học một chút, mà “Ngộ” được cũng đủ lắm rồi, làm vài việc thiện, nói vài câu “Tâm Thanh Ý Lành” cũng đủ làm cho chúng ta được “Thân Tâm An Lạc”. Cũng như người Công Giáo, không phải đợi cho đến mùa “Tĩnh Tâm” thì lúc đó mới Tĩnh Tâm, mới “ngẫm” đến sự hy sinh Cứu rổi của Chúa. Hoặc người Phật tử chỉ “Hành Thiền” phải luôn luôn tịnh tâm hoặc “Hành Thiền” khi đi đến chùa, chúng ta để được Thân Tâm An Lạc.

Như vậy, lúc chúng ta hít vào thở ra, thì chúng ta đã có nhiều tế bào bị hủy diệt đi, và đã có nhiều triệu tế bào khác được sinh ra.

“Có phải mất đi là để được sinh ra, phải không các bạn?”

Và nhờ đó con người được liên tục, tế bào này liên hợp với tế bào kia “Hợp rồi Tan”, “Tan rồi Hợp”, như cơn sóng vỗ bờ, thủy triều lên xuống. Nhưng ngẫm nghĩ cho cùng “chẳng có cái gì mất đi và cũng chẳng có cái gì sinh ra, hoặc ngược lại.

Nhà Bác Học NewTon, người đã đưa ra Định Luật sức hút của Quả Đất, do ông đã “Ngộ” khi nhìn thấy trái táo (Apple) rơi. Chúng ta ai ai cũng thấy trái táo rơi ở vườn Táo, mà có ai trong chúng ta “Ngộ” được đâu? Không lẽ phải đợi cho đến khi ông NewTon nằm nghĩ dưới gốc cây táo, thì lúc đó trái táo mới rơi? Và nhờ định luật sức hút Quả Đất, nên chúng ta mới chế tạo được máy bay, phi thuyền bay lên không gian, để khỏi bị sức hút của Quả Đất hút xuống.

Nhà Vật Lý Học Archimede đưa ra “Định Luật về sức đẩy của Nước”, khi ông đang tắm ở trong bể tắm. Nhờ đó con người đã chế ra các chiếc thuyền Chiến Hạm và ngay cả Tiềm Thủy Đỉnh. Còn chúng ta hầu như mỗi ngày đều phải tắm -- vậy mà có ai trong chúng ta “Ngộ” được?

Tôi còn nhớ lúc còn nhỏ, đêm đêm nằm ngủ, nghe mẹ tôi, tụng kinh Bát Nhã “Quán Tự Tại Bồ Tát Hành Thâm, Bát Nhã Ba La Mật Đa... Sắc bất dị không, không bất dị sắc; Sắc tức thị không, không tức thị sắc”… Tôi chỉ cảm thấy êm tai mà ngủ một giấc ngon lành. Lớn lên, được Mẹ cho vào học Nội trú ở các Trường Công Giáo, Tôi cũng đi theo các anh em bạn học dự vài buổi lễ Tĩnh Tâm, đêm về Tôi lại có giấc ngủ ngon.

Như vậy, một giấc ngủ an lành, đã đến với tôi, nhờ Tôi có được “Tâm Ý An Lạc” làm cho hơi thở được điều hòa và dòng máu chuyển thông suốt. Theo Tôi, chúng ta nên đi chùa, nhà thờ, hoặc làm phước, bố thí, thì một giấc ngủ an lành sẽ đến với chúng ta -- và chúng ta cũng phải luôn luôn giữ Tâm ý thanh thản đừng để cho cái Tâm bị động như “TÂM VIÊN Ý MÔ.

Thật ra sự thay đổi kiến thức dễ hơn là thay đổi cái Tâm. Có một người bị mất con dao, nhìn ai cũng nghĩ sao nó giống kẻ ăn cắp con dao, khi nghi thì vẽ vời tưởng tượng đủ thứ, khi giận thì mặt phừng phừng như lửa đốt, tìm mọi lý lẻ để chứng minh mình là đúng, người là sai. Và còn khi sợ hãi thì tay chân bủn rủn, rụng rời… Tất cả cũng chỉ tại cái Tâm của chúng ta mà thôi. Chúng ta luôn nói rằng “Mặt Trời Mọc (Sinh), hoặc Mặt Trời Lặn (Diệt), hoặc Trăng Khuyết, thật ra mặt trăng có bị khuyết bao giờ đâu? Và mặt trời cũng chẳng có bao giờ mọc hoặc lặn, mà chỉ có quả đất là đang xoay chuyển.

Ánh Trăng vẫn chiếu sáng trên mặt hồ, chỉ cần không có cơn sóng dao động. Vì vậy trước hết chúng ta phải “Tĩnh Tâm”, phải có cái nhìn đặc biệt về mình, và phải “Từ Bi” với mình, tức là phải biết thương yêu cái thân Tâm mình. Một câu ngạn ngữ của Hoa Kỳ có nói rằng:

“Nếu Bạn không biết thương yêu bạn, thì làm sao bạn có thể yêu thương người khác”. “If you don't Love yourself, how can you be able to love anybody esle?” Khi chúng ta biết thương mình, thương người cộng thêm với “tiếng nói tận Con Tim”, thì chúng ta sẽ làm cho hoàn cảnh chung quanh đẹp hơn, ánh nắng sẽ tươi hơn, cơn mưa sẽ mát hơn, tình yêu tuyệt vời hơn và lúc đó mọi sự sẽ nhẹ nhàng, thanh thản. Cái Tâm ý sẽ bớt đi sự tham lam, sân si.

Ngoài cái lo sự lớn nhất của con người là sợ chết. Bên cạnh đó còn có những lo sợ khác như sợ nghèo, sợ xấu xí, già nua… Cô Hoa Hậu mỗi ngày đều soi gương, khi thấy chỉ có một sợi tóc bạc, hoặc một cái mụn thì đã làm cho cô ta lo sợ, khổ đau. Chỉ có Đức Phật khi nghe nói đến sự khổ đau thì ngài chỉ mỉm cười.

Tất cả chúng ta ai ai cũng có “Phật Tánh”. Đức Phật đã có nói rồi mà “Ta là Phật” Chúng sanh cũng là Phật sẽ thành. Còn theo Thánh Kinh Công Giáo, Thiên Chúa khi tạo ra con người, ngài đã tạo ra thân xác con người hiện hửu giống như ngài. Tức là chúng ta cũng có “Tánh Phật”, cũng có “Tâm ý Chúa” vậy thì đâu có gì lạ? Đâu có gì thay đổi? Đôi khi sự khổ đau đã xảy ra là do những hiện hửu bên ngoài đem đến, mà không phải tự do chúng ta gây nên.

Theo kinh Bát Nhã “Sắc bất dị không, không bất dị sắc…” Chữ “Sắc” ở trong câu kinh, theo thiển kiến của tôi, nó có nghĩa là “hình sắc, sắc đẹp, thân thể hoặc sắc diện chứ không phải có nghĩa là màu sắc như chúng ta thường nghĩ. Như vậy sắc có nghĩa là thân xác, và đã xuất hiện rõ như vậy, cớ sao câu kinh lại gọi là không?

Thật ra cái sắc (thân xác) tuyệt vời kia, cuối cùng lại tan biến vào cát bụi. Do đó, nếu chúng ta cứ bám lấy cái sắc (thân xác) mà xem đó là “sự vĩnh cửu” đời đời, thì chúng ta sẽ khổ đau, khi thấy cái sắc (thân xác) bị phai tàn, để cuối cùng lại tan vào cát bụi, trở về với hư không và rồi lại tiếp tục sắc bất dị không, không bất dị sắc. Chữ không trong câu kinh sắc bất dị không, các bản dịch tiếng Anh (English) đều không dịch được sát ý của chữ không, không có danh từ, tương đương và lại càng không thể dịch là “không có -- nothing”.

Chữ “không” trong kinh Bát Nhã là khoảng hư không của vũ trụ, là có hết tất cả. Tất cả con người chúng ta, đều được sinh ra, là do “duyên sinh”, chứ không phải là do “sự tự tính”. Và khi chúng ta được tạo ra, thì gọi là sắc (hình thể) để rồi khi chết đi thân xác lại tan vào cát bụi của cõi hư không liên tục tan rồi hợp, hợp rồi tan, cho đến khi gặp duyên sinh, lại tạo ra sắc, để rồi: “Sắc bất dị không, không bất dị sắc”.

Khi chúng ta có người quen bạn hữu, hoặc thân bằng quyến thuộc như cha, mẹ, anh, chị, em hoặc người bà con của chúng ta bị mất đi, chúng ta rất đau buồn, khóc lóc, nước mắt lại trào ra, thương tiếc cho người quá cố, và làm cho chúng ta càng nghĩ đến kiếp người, sắc rồi lại không.

Cuộc Hồng Trần xoay vần quá ngán,
Kiếp Phù Sanh tụ tán mấy lăm Hồi
Người ơi có biết hay chăng?
“Sắc” người tuy có, có rồi hoàn không
Chiêm bao giấc ngủ lạ lùng,
Mơ màng trong một giấc nồng mà chi
Làm cho buồn bã thế ni,
Hình dung mới đó bữa nay đâu rồi
Khi nào người đứng, người ngồi,
Bây giờ nhắm mắt như chồi cây khô
Khi nào mẹ mẹ, cha cha;
Bây giờ bóng núi cách xa muôn trùng
Khi nào vợ vợ, chồng chồng,
Bây giờ Trăng khuyết còn mong chi tròn…

Kiếp người của chúng ta, lúc có lúc không. Sự sinh tử luân hồi đã xảy ra quanh chúng ta liên tục không ngừng. Đã đến lúc, chúng ta nên tĩnh tâm, dùng lời Tâm Thanh Ý Lành để đối xử với nhau, để biết buông xả và hãy lắng nghe tiếng nói của con tim mình để có một lối sống an vui hơn.

Khi chúng ta đang lúc nóng giận, thì hơi thở trở nên dồn dập, không kiểm soát được và khi ta bớt giận, thì hơi thở sẽ từ từ trở lại bình thường. Đây là một hiện tượng Sinh Lý Học. Do đó nếu chúng ta đang giận điều gì, thì nên tập trung chú ý đến nhịp thở và cố tìm cách kiểm soát hơi thở, do đó chúng ta đâu có thời giờ để ý đến chuyện giận nữa. Người biết kiểm soát được hơi thở thì sẽ kiểm soát được “Tâm Ý”. Chúng ta thường hay nghe nói “Giận quá mất khôn?” Phải không các bạn.

Muốn kiểm soát được hơi thở. Trước tiên chúng ta phải “Tĩnh Tâm”, “Thiền”, và thở bằng cơ Hoành (Diaphragm muscle), hay còn gọi là cách thở Bụng. Đây là cách thở của trẻ sơ sinh, thở một cách êm nhẹ, nhưng rất có hiệu quả. Còn khi chúng ta tập thể dục, cử tạ, thì dùng đến các cơ hô hấp phụ, như cơ gian sườn, cơ cổ và không tạo được hiệu quả nhiều.

Do đó ta có thể nói “Thiền” là thở, chủ yếu là thở bụng và luôn luôn nghĩ đến hơi thở của mình trong lúc thở và nên ngồi theo “Thiền” tư thế kiết già (Padmasana) để rồi lắng nghe tiếng nói của con tim mình, để làm cho huyết áp được điều hòa, lượng Acid Lactic giảm xuống đưa đến hiện tượng giảm co cơ và làm đều hòa nhịp tim.

Khi tâm trí của chúng ta được Thanh Tịnh và với Tâm Thanh Ý Lành, để “Quán Bát Nhã” và “Thiền Định” thì chúng ta sẽ được an vui. Và khi nghe đến câu kinh “Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm”, chúng ta sẽ tự hỏi vị Bồ Tát này là ai?

Đó chính là Quán Thế Âm Bồ Tát. Người đã nghe được tiếng kêu thống khổ của Trần Thế và cũng là vị Bồ Tát đã tưới những giọt nước linh thiêng “Cam Lồ” để dập tắt những khổ đau ách nạn, giúp cho con người Trần Thế vượt qua được khổ nạn. Khi chúng ta giữ được Tâm Thân An Lạc, thở theo phương pháp thở Chánh niệm và lắng nghe tiếng nói tận con tim mình thì cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên An Lành và vui tươi hơn.

“Nam Mô Đại Từ Đại Bi cứu khổ, cứu nạn linh cảm, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.”

Dr. Lý Văn Kim
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/06/2024(Xem: 2749)
Cùng toàn thể giới tử thọ trì Bát quan trai giới một ngày một đêm tại trú xứ Tăng già-lam Phước duyên, thành phố Huế, hiện diện quý mến. Một ngày một đêm quý vị ở trong Tịnh giới với niềm tin thanh tịnh, kiên cố, bất hoại đối với Tam bảo. Nhờ niềm tin này mà quý vị không để cho Giới pháp của mình bị sứt mẻ ở trong đi, ở trong đứng, ở trong nằm, ở trong ngồi, ở trong sự nói năng, giao tiếp. Quý vị có được niềm tin này là nhờ quý vị nuôi lớn sáu tính chất của Tam bảo, khiến cho ba nghiệp của quý vị được an tịnh, an tịnh về thân hành, an tịnh về ngữ hành, an tịnh về ý hành. Sáu tính chất của Tam bảo, quý vị phải thường quán chiếu sâu sắc, để thể nhập và tạo ra chất liệu cho chính mình, ngay đời này và đời sau. Sáu tính chất của Tam bảo gồm:
27/05/2024(Xem: 710)
Theo quan niệm của Phật giáo, Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là cơ sở quan trọng của Tứ Diệu Đế. Chúng ta thường nghe nói, “Đời Là Bể Khổ.” Phật Giáo phân loại Khổ rất luận lý khoa học: Tam Khổ (Khổ khổ [sa. duḥkha-duḥkha,] Hoại khổ [sa. vipariṇāma-duḥkha,] và Hành khổ [sa. saṃskāra-duḥkha.] Ngoài ra còn có Bát khổ. Sinh – Lão – Bệnh – Tử gọi là tứ khổ. Cộng thêm 4 cái khổ khác nữa là: Ái biệt ly khổ - 愛別離苦(あいべつりく): Yêu nhau mà chia lìa nhau là khổ vậy. Cầu bất đắc khổ - 求不得苦(ぐふとくく): Cầu mà không được chính là khổ vậy. Oán tắng hội khổ - 怨憎会苦(おんぞうえく): Ghét mà phải ra vào gặp mặt hàng ngày là khổ vậy. Ngũ ấm xí thạnh khổ - 五蘊 盛苦(ごうんじょう): No cơm ấm cật quá cũng khổ.
30/04/2024(Xem: 2287)
Những lời trích dẫn trên đây thật đanh thép và minh bạch, chữ vu khống trong câu trích dẫn trên đây trong bản gốc bằng tiếng Pali là chữ abbhācikkhanti (abhi + ā + cikkh + a), các tự điển tiếng Anh dịch chữ này là accusation, calumny, slander…, có nghĩa là kết án, phỉ báng, vu khống…. Thế nhưng trong khi viết lách hay thuyết giảng đôi khi chúng ta không nghĩ đến những lời cảnh giác trên đây của Đức Phật. Sau hơn hai mươi lăm thế kỷ quảng bá, xuyên qua nhiều vùng địa lý, hòa mình với nhiều nền văn minh và văn hóa khác nhau, nền Tư tưởng và Giáo huấn của Đức Phật đã phải trải qua nhiều thử thách, thích ứng với nhiều dân tộc, do đó thật khó tránh khỏi ít nhiều biến dạng và thêm thắt. Thế nhưng thực tế cho thấy trong suốt cuộc hành trình kỳ thú và vĩ đại đó – nếu có thể nói như vậy – nền Tư tưởng và Giáo huấn đó của Đức Phật vẫn đứng vững và đã góp phần không nhỏ trong công trình cải thiện xã hội, nâng cao trình độ văn hóa, tư tưởng và mang lại ít nhất là một chút gì đó lý tưởng hơn, cao đ
30/04/2024(Xem: 2515)
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu: “Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” Có nghĩa là: “Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
18/02/2024(Xem: 3031)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 5965)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
20/01/2024(Xem: 2202)
Thông thường người ta vào học Phật ít nhiều cũng do có động lực gì thúc đẩy hoặc bởi thân quyến qua đời, hoặc làm ăn thất bại, hoặc hôn nhân dở dang v.v... nhưng cũng không ít người nhân nghe giảng pháp hay gặp một quyển sách khế hợp căn cơ liền phát tâm tu hành hay tìm hiểu học Phật pháp. Phần lớn đệ tử xuất gia hoặc tại gia của Hòa Thượng cũng vì cảm mộ pháp giải của Ngài mà quy y Phật. Quyển vấn đáp này góp nhặt từ những buổi giảng thuyết trong các chuyến hoằng pháp của Hòa Thượng, hy vọng cũng không ngoài mục đích trên, là dẫn dắt người có duyên vào đạo hầu tự sửa đổi lỗi lầm mà giảm trừ tội nghiệp.
20/01/2024(Xem: 2348)
Năm xưa khi Phật thuyết kinh, hoàn toàn dùng khẩu ngữ vì bấy giờ nhân loại chưa có chữ viết (xứ Ấn). Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử Phật mới kết tập laị những gì Phật dạy để lưu truyền cho đời sau. Đạo Phật dần dần truyền sang các xứ khác, truyền đến đâu thì kinh điển cũng được phiên dịch sang ngôn ngữ của xứ ấy. Lúc ban đầu kinh Phật được ghi chép bằng tiếng Phạn ( Sancrit, Pali ) sau đó thì dịch sang tiếng: Sinhale, Pakistan, Afghanistan, tiếng Tàu, Thái, Nhật, Hàn, Việt… và sau nữa là tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha…
20/12/2023(Xem: 2798)
Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ (Bạch X. Khỏe) định cư ở Hoa Kỳ từ năm 1991, hiện đang giảng dạy Hóa học và Hóa học danh dự cho Trường trung học Mira Loma tại thủ phủ Sacramento, CA. Ông quy y với Thiền sư Trừng Quang Thích Nhất Hạnh, có Pháp danh là Tâm Thường Định. Ông đã và đang giảng dạy về Lãnh đạo chánh niệm và phương thức mang chánh niệm vào học đường ở bang California từ năm 2014. Tiến sỹ Bạch cũng giảng dạy cho chương trình huấn luyện giáo viên. Ngoài ra, ông còn tham gia nhiều công việc xã hội trong cộng đồng. Tháng Ba 2023, TS Bạch Xuân Phẻ được Hiệp hội Giáo viên California (California Teachers Association) vinh danh vì những đóng góp giáo dục thực hành chánh niệm của ông. TS Bạch Xuân Phẻ cũng được trao Giải thưởng Nhân quyền người Mỹ gốc Á Thái Bình Dương năm 2023 của bang California (Human Right Awards).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com