Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiếng Nói Của Con Tim Tĩnh Tâm

16/09/201109:03(Xem: 1163)
Tiếng Nói Của Con Tim Tĩnh Tâm
TIẾNG NÓI CỦA CON TIM TĨNH TÂM
Dr. Lý Văn Kim

Trong thời đại bây giờ, con người hình như có quá ít thời giờ để nghĩ đến riêng cho bản thân mình, do bởi quá sức bận rộn với cuộc sống, nghề nghiệp, mà phải lao động suốt ngày, đôi khi quên cả hơi thở của chính mình mà chỉ biết lo làm việc, tối tăm mặt mũi vì “trăm ngàn công việc”. Cho đến một hôm, tôi đã ngẫm nghĩ, nghe ngóng và do bởi quá bức xúc, tôi phải viết lên những thầm nghĩ của chính mình.

Tôi không phải là thi sĩ, văn sĩ cũng không phải là tu sĩ, tôi chỉ là một bác sĩ nha khoa, cũng là một người thầy thuốc, nên phải hành nghề, phải giúp đỡ chữa trị cho người quen, kẻ lạ và ngay cho cả bản thân mình. Nhưng tôi nhận định được rằng, thuốc men chữa trị chỉ trị được cái “đau” mà không chữa được cái “khổ”. Tôi mong được chia sẻ những thầm nghĩ để cùng với mọi người, chúng ta hãy lắng nghe “Tiếng nói của con tim mình”. Trái tim không phải dùng để suy nghĩ; trái tim là để yêu thương và nếu trái tim có nghĩ, thì chắc chắn nó không nghĩ như khối óc. Trái tim có cách nghĩ riêng của nó, mà nhiều khi khoi óc không sao hiểu được. Con người bây giờ dùng khối óc nhiều quá! Nhiều đến nỗi, người ta luôn luôn trong tình trạng muốn “điên cái đầu”. Có lẽ đến lúc chúng ta hãy thử lắng nghe tiếng nói của con tim mình.

Dù rằng máy computer, đã gắn liền thông tin liên lạc giữa các quốc gia nối trọn vòng trái đất, nhưng hình như chúng ta có quá ít thời gian để nghe tiếng nói của con tim mình. Chúng ta ngày càng xa nhau hơn, xa với người và xa cả với chính mình.

Một hôm, có chàng thi sĩ nhìn thấy một đóa hoa nở, chàng thi sĩ đó đã cúi đầu, tĩnh tâm và cảm thấy đóa hoa bỗng nhiên như nở một “nụ cười” tươi với chàng; rồi không hẳn chỉ cười, mà hình như đóa hoa đó còn đang nói chuyện với chàng. Người ta có thể nghĩ rằng chàng thi sĩ đó chắc bị điên, có điều chàng ta biết rất rõ, là chàng ta đã nghe được tiếng nói tận con tim mình.

Khi chúng ta nghe được tiếng nói của con tim, thì tâm ý sẽ quên đi những quan niệm hẹp hòi, đố kỵ, và giúp cho chúng ta dễ có khả năng hòa đồng, giúp đỡ, bố thí, làm phước, có trách nhiệm hơn với chính mình, biết thương mình, thương người, thương cuộc sống và biết thưởng thức cuộc sống với chất lượng cao hơn, không phải chỉ là giàu có hơn, danh vọng hơn, thành công hơn, mà là có hạnh phúc hơn, biết tha thứ và biết “buông xã”.

Do bởi có quá nhiều bức xúc trong cuộc sống, nên tôi viết lên những lời chân thành, cảm nghĩ của con tim mình, để được sống sảng khoái hơn. Nhưng tôi đã quên đi một điều rất tầm thường, đó là tôi không biết thở cho đúng cách tôi đã để hết tâm trí mà viết, cũng giống như các bạn, quá chú tâm vào công việc và chúng ta đã quên đi “phương pháp thở chánh niệm”.

Trong suốt đời người, “sự sinh tử” đã xẩy ra quá nhiều lần, mà không một ai trong chúng ta lại để ý đến. Thử nghĩ xem, chỉ riêng về máu trong cơ thể, mỗi giây đã có nhiều triệu tế bào hồng cầu (red blood cells) bị hủy diệt và độ chừng ba tháng, một “Hệ thống máu mới đã được sinh ra”, nói một cách khác “Một con người mới” đã được ra đời trong mỗi chúng ta.

Từ khi, tôi biết chú ý đến hơi thở và biết lắng nghe tiếng nói của con tim mình, tôi biết buông xả hơn, cười tươi hơn và biết thở đúng hơn.

Phương pháp thở chánh niệm, kết hợp với tiếng nói của con tim, sẽ làm cho tâm hồn chúng ta được hồn nhiên hơn. Nói một cách khác, “chốn thiên đàng hoặc cõi niết bàn” thật ra là ở ngay trong tâm của chúng ta mà thôi, chứ không phải tìm kiếm ở đâu xa đúng như lời của vua Trần Nhân Tông đã nói: “Gia Trung hửu bảo hưu tầm mích”.

Số lượng kinh Phật nếu muốn học hết, có lẽ học đến mười kiếp cũng chưa hết. Nhưng Đức Phật đã nói: chỉ cần chúng ta học một chút, mà “Ngộ” được cũng đủ lắm rồi, làm vài việc thiện, nói vài câu “Tâm Thanh Ý Lành” cũng đủ làm cho chúng ta được “Thân Tâm An Lạc”. Cũng như người Công Giáo, không phải đợi cho đến mùa “Tĩnh Tâm” thì lúc đó mới Tĩnh Tâm, mới “ngẫm” đến sự hy sinh Cứu rổi của Chúa. Hoặc người Phật tử chỉ “Hành Thiền” phải luôn luôn tịnh tâm hoặc “Hành Thiền” khi đi đến chùa, chúng ta để được Thân Tâm An Lạc.

Như vậy, lúc chúng ta hít vào thở ra, thì chúng ta đã có nhiều tế bào bị hủy diệt đi, và đã có nhiều triệu tế bào khác được sinh ra.

“Có phải mất đi là để được sinh ra, phải không các bạn?”

Và nhờ đó con người được liên tục, tế bào này liên hợp với tế bào kia “Hợp rồi Tan”, “Tan rồi Hợp”, như cơn sóng vỗ bờ, thủy triều lên xuống. Nhưng ngẫm nghĩ cho cùng “chẳng có cái gì mất đi và cũng chẳng có cái gì sinh ra, hoặc ngược lại.

Nhà Bác Học NewTon, người đã đưa ra Định Luật sức hút của Quả Đất, do ông đã “Ngộ” khi nhìn thấy trái táo (Apple) rơi. Chúng ta ai ai cũng thấy trái táo rơi ở vườn Táo, mà có ai trong chúng ta “Ngộ” được đâu? Không lẽ phải đợi cho đến khi ông NewTon nằm nghĩ dưới gốc cây táo, thì lúc đó trái táo mới rơi? Và nhờ định luật sức hút Quả Đất, nên chúng ta mới chế tạo được máy bay, phi thuyền bay lên không gian, để khỏi bị sức hút của Quả Đất hút xuống.

Nhà Vật Lý Học Archimede đưa ra “Định Luật về sức đẩy của Nước”, khi ông đang tắm ở trong bể tắm. Nhờ đó con người đã chế ra các chiếc thuyền Chiến Hạm và ngay cả Tiềm Thủy Đỉnh. Còn chúng ta hầu như mỗi ngày đều phải tắm -- vậy mà có ai trong chúng ta “Ngộ” được?

Tôi còn nhớ lúc còn nhỏ, đêm đêm nằm ngủ, nghe mẹ tôi, tụng kinh Bát Nhã “Quán Tự Tại Bồ Tát Hành Thâm, Bát Nhã Ba La Mật Đa... Sắc bất dị không, không bất dị sắc; Sắc tức thị không, không tức thị sắc”… Tôi chỉ cảm thấy êm tai mà ngủ một giấc ngon lành. Lớn lên, được Mẹ cho vào học Nội trú ở các Trường Công Giáo, Tôi cũng đi theo các anh em bạn học dự vài buổi lễ Tĩnh Tâm, đêm về Tôi lại có giấc ngủ ngon.

Như vậy, một giấc ngủ an lành, đã đến với tôi, nhờ Tôi có được “Tâm Ý An Lạc” làm cho hơi thở được điều hòa và dòng máu chuyển thông suốt. Theo Tôi, chúng ta nên đi chùa, nhà thờ, hoặc làm phước, bố thí, thì một giấc ngủ an lành sẽ đến với chúng ta -- và chúng ta cũng phải luôn luôn giữ Tâm ý thanh thản đừng để cho cái Tâm bị động như “TÂM VIÊN Ý MÔ.

Thật ra sự thay đổi kiến thức dễ hơn là thay đổi cái Tâm. Có một người bị mất con dao, nhìn ai cũng nghĩ sao nó giống kẻ ăn cắp con dao, khi nghi thì vẽ vời tưởng tượng đủ thứ, khi giận thì mặt phừng phừng như lửa đốt, tìm mọi lý lẻ để chứng minh mình là đúng, người là sai. Và còn khi sợ hãi thì tay chân bủn rủn, rụng rời… Tất cả cũng chỉ tại cái Tâm của chúng ta mà thôi. Chúng ta luôn nói rằng “Mặt Trời Mọc (Sinh), hoặc Mặt Trời Lặn (Diệt), hoặc Trăng Khuyết, thật ra mặt trăng có bị khuyết bao giờ đâu? Và mặt trời cũng chẳng có bao giờ mọc hoặc lặn, mà chỉ có quả đất là đang xoay chuyển.

Ánh Trăng vẫn chiếu sáng trên mặt hồ, chỉ cần không có cơn sóng dao động. Vì vậy trước hết chúng ta phải “Tĩnh Tâm”, phải có cái nhìn đặc biệt về mình, và phải “Từ Bi” với mình, tức là phải biết thương yêu cái thân Tâm mình. Một câu ngạn ngữ của Hoa Kỳ có nói rằng:

“Nếu Bạn không biết thương yêu bạn, thì làm sao bạn có thể yêu thương người khác”. “If you don't Love yourself, how can you be able to love anybody esle?” Khi chúng ta biết thương mình, thương người cộng thêm với “tiếng nói tận Con Tim”, thì chúng ta sẽ làm cho hoàn cảnh chung quanh đẹp hơn, ánh nắng sẽ tươi hơn, cơn mưa sẽ mát hơn, tình yêu tuyệt vời hơn và lúc đó mọi sự sẽ nhẹ nhàng, thanh thản. Cái Tâm ý sẽ bớt đi sự tham lam, sân si.

Ngoài cái lo sự lớn nhất của con người là sợ chết. Bên cạnh đó còn có những lo sợ khác như sợ nghèo, sợ xấu xí, già nua… Cô Hoa Hậu mỗi ngày đều soi gương, khi thấy chỉ có một sợi tóc bạc, hoặc một cái mụn thì đã làm cho cô ta lo sợ, khổ đau. Chỉ có Đức Phật khi nghe nói đến sự khổ đau thì ngài chỉ mỉm cười.

Tất cả chúng ta ai ai cũng có “Phật Tánh”. Đức Phật đã có nói rồi mà “Ta là Phật” Chúng sanh cũng là Phật sẽ thành. Còn theo Thánh Kinh Công Giáo, Thiên Chúa khi tạo ra con người, ngài đã tạo ra thân xác con người hiện hửu giống như ngài. Tức là chúng ta cũng có “Tánh Phật”, cũng có “Tâm ý Chúa” vậy thì đâu có gì lạ? Đâu có gì thay đổi? Đôi khi sự khổ đau đã xảy ra là do những hiện hửu bên ngoài đem đến, mà không phải tự do chúng ta gây nên.

Theo kinh Bát Nhã “Sắc bất dị không, không bất dị sắc…” Chữ “Sắc” ở trong câu kinh, theo thiển kiến của tôi, nó có nghĩa là “hình sắc, sắc đẹp, thân thể hoặc sắc diện chứ không phải có nghĩa là màu sắc như chúng ta thường nghĩ. Như vậy sắc có nghĩa là thân xác, và đã xuất hiện rõ như vậy, cớ sao câu kinh lại gọi là không?

Thật ra cái sắc (thân xác) tuyệt vời kia, cuối cùng lại tan biến vào cát bụi. Do đó, nếu chúng ta cứ bám lấy cái sắc (thân xác) mà xem đó là “sự vĩnh cửu” đời đời, thì chúng ta sẽ khổ đau, khi thấy cái sắc (thân xác) bị phai tàn, để cuối cùng lại tan vào cát bụi, trở về với hư không và rồi lại tiếp tục sắc bất dị không, không bất dị sắc. Chữ không trong câu kinh sắc bất dị không, các bản dịch tiếng Anh (English) đều không dịch được sát ý của chữ không, không có danh từ, tương đương và lại càng không thể dịch là “không có -- nothing”.

Chữ “không” trong kinh Bát Nhã là khoảng hư không của vũ trụ, là có hết tất cả. Tất cả con người chúng ta, đều được sinh ra, là do “duyên sinh”, chứ không phải là do “sự tự tính”. Và khi chúng ta được tạo ra, thì gọi là sắc (hình thể) để rồi khi chết đi thân xác lại tan vào cát bụi của cõi hư không liên tục tan rồi hợp, hợp rồi tan, cho đến khi gặp duyên sinh, lại tạo ra sắc, để rồi: “Sắc bất dị không, không bất dị sắc”.

Khi chúng ta có người quen bạn hữu, hoặc thân bằng quyến thuộc như cha, mẹ, anh, chị, em hoặc người bà con của chúng ta bị mất đi, chúng ta rất đau buồn, khóc lóc, nước mắt lại trào ra, thương tiếc cho người quá cố, và làm cho chúng ta càng nghĩ đến kiếp người, sắc rồi lại không.

Cuộc Hồng Trần xoay vần quá ngán,
Kiếp Phù Sanh tụ tán mấy lăm Hồi
Người ơi có biết hay chăng?
“Sắc” người tuy có, có rồi hoàn không
Chiêm bao giấc ngủ lạ lùng,
Mơ màng trong một giấc nồng mà chi
Làm cho buồn bã thế ni,
Hình dung mới đó bữa nay đâu rồi
Khi nào người đứng, người ngồi,
Bây giờ nhắm mắt như chồi cây khô
Khi nào mẹ mẹ, cha cha;
Bây giờ bóng núi cách xa muôn trùng
Khi nào vợ vợ, chồng chồng,
Bây giờ Trăng khuyết còn mong chi tròn…

Kiếp người của chúng ta, lúc có lúc không. Sự sinh tử luân hồi đã xảy ra quanh chúng ta liên tục không ngừng. Đã đến lúc, chúng ta nên tĩnh tâm, dùng lời Tâm Thanh Ý Lành để đối xử với nhau, để biết buông xả và hãy lắng nghe tiếng nói của con tim mình để có một lối sống an vui hơn.

Khi chúng ta đang lúc nóng giận, thì hơi thở trở nên dồn dập, không kiểm soát được và khi ta bớt giận, thì hơi thở sẽ từ từ trở lại bình thường. Đây là một hiện tượng Sinh Lý Học. Do đó nếu chúng ta đang giận điều gì, thì nên tập trung chú ý đến nhịp thở và cố tìm cách kiểm soát hơi thở, do đó chúng ta đâu có thời giờ để ý đến chuyện giận nữa. Người biết kiểm soát được hơi thở thì sẽ kiểm soát được “Tâm Ý”. Chúng ta thường hay nghe nói “Giận quá mất khôn?” Phải không các bạn.

Muốn kiểm soát được hơi thở. Trước tiên chúng ta phải “Tĩnh Tâm”, “Thiền”, và thở bằng cơ Hoành (Diaphragm muscle), hay còn gọi là cách thở Bụng. Đây là cách thở của trẻ sơ sinh, thở một cách êm nhẹ, nhưng rất có hiệu quả. Còn khi chúng ta tập thể dục, cử tạ, thì dùng đến các cơ hô hấp phụ, như cơ gian sườn, cơ cổ và không tạo được hiệu quả nhiều.

Do đó ta có thể nói “Thiền” là thở, chủ yếu là thở bụng và luôn luôn nghĩ đến hơi thở của mình trong lúc thở và nên ngồi theo “Thiền” tư thế kiết già (Padmasana) để rồi lắng nghe tiếng nói của con tim mình, để làm cho huyết áp được điều hòa, lượng Acid Lactic giảm xuống đưa đến hiện tượng giảm co cơ và làm đều hòa nhịp tim.

Khi tâm trí của chúng ta được Thanh Tịnh và với Tâm Thanh Ý Lành, để “Quán Bát Nhã” và “Thiền Định” thì chúng ta sẽ được an vui. Và khi nghe đến câu kinh “Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm”, chúng ta sẽ tự hỏi vị Bồ Tát này là ai?

Đó chính là Quán Thế Âm Bồ Tát. Người đã nghe được tiếng kêu thống khổ của Trần Thế và cũng là vị Bồ Tát đã tưới những giọt nước linh thiêng “Cam Lồ” để dập tắt những khổ đau ách nạn, giúp cho con người Trần Thế vượt qua được khổ nạn. Khi chúng ta giữ được Tâm Thân An Lạc, thở theo phương pháp thở Chánh niệm và lắng nghe tiếng nói tận con tim mình thì cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên An Lành và vui tươi hơn.

“Nam Mô Đại Từ Đại Bi cứu khổ, cứu nạn linh cảm, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.”

Dr. Lý Văn Kim
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/02/2022(Xem: 37198)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
17/11/2021(Xem: 26082)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 21952)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 13875)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 15473)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 15516)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 18151)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 17913)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
24/06/2021(Xem: 5134)
Lòng Từ bi là một giá trị phổ quát. Tranh đấu cho công bằng xã hội – nghĩa là bảo đảm quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người – thường xuất phát từ sự phẫn nộ, thúc đẩy con người chống lại những bất công có hệ thống. Tôi tin rằng đấu tranh cho công bằng xã hội sẽ có hiệu quả tốt nhất nếu được kích hoạt bởi lòng từ bi. Nếu động lực đấu tranh cho công bằng xã hội của chúng ta là do lòng từ bi đích thực, chúng ta sẽ được tiếp thêm năng lượng để hoạt động tích cực hơn nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người có được một phẩm chất đời sống xứng đáng. Tôi tin rằng nữ giới có thể đóng một vai trò đặc biệt trong việc đấu tranh cho công bằng xã hội bằng cách tu tập lòng từ bi và trí tuệ.
07/05/2021(Xem: 21790)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]