Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giáo dục Phật giáo với bảo vệ môi trường

24/12/201004:07(Xem: 8032)
Giáo dục Phật giáo với bảo vệ môi trường

HT_Khe_Chon_1a

Đối với Phật giáo, sự sinh tồn của con người và môi trường là bình đẳng, không tách rời; Giáo dục Phật giáo đưa con người gần với môi trường tự nhiên, cùng sinh tồn, coi yếu tố môi trường là một, gần gũi thân thiện chứ không phải là đối tượng để con người lợi dụng.

I. Ý nghĩa và giải thích đề tài

1. Ý nghĩa của đề tài

Hơn bao giờ hết, nhân loại chúng ta đang đứng trước nhiều thảm họa thiên tai trong những năm trở lại đây, sự nóng lên của địa cầu, động đất, sóng thần, sụt lở đất, lụt lội, môi trường ô nhiễm… xảy ra liên tục ở khắp các châu lục, hàng ngàn người bị cướp đi sinh mạng, cảnh tan thương không nhà cửa, để lại một hậu quả khôn lường. Những thảm họa này không chỉ do thiên tai mà trong đó còn do tác động của con người. Chính vì thế, tôi đã chọn đề tài này để viết tham luận cho Hội thảo, nhằm đóng góp Giáo dục Phật giáo với vai trò bảo vệ môi trường, phát triển bền vững.

Đối với Phật giáo, sự sinh tồn của con người và môi trường là bình đẳng, không tách rời; Giáo dục Phật giáo đưa con người gần với môi trường tự nhiên, cùng sinh tồn, coi yếu tố môi trường là một, gần gũi thân thiện chứ không phải là đối tượng để con người lợi dụng. Cho nên, trong Phật giáo chia thế giới sự vật trong đó kể cả con người thành hữu tình và vô tình, nhưng khi tu hành đến cứu cánh thì tình và vô tình đồng triêm lợi lạc hoặc đồng viên chủng trí.

Mặc khác, mục đích của đề tài đóng góp hướng đi của Giáo dục Phật giáo với môi trường, nhằm giới thiệu cho mọi người hiểu được bản chất sự tác động của con người vào thế giới tự nhiên một cách đúng đắn, vừa bảo vệ môi trường vừa tồn tại không tách rời với thiên nhiên, đem lại lợi ích thiết thực trong cuộc sinh tồn cho cả cộng đồng ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sinh thái.

2. Giải thích đề tài

Do con người với lòng tham lam và ích kỉ, trục lợi với chiêu bài “chinh phục” tự nhiên tạo thành khủng hoảng sinh thái, thực tế càng cho thấy ý nghĩa hệ thống sinh thái cộng sinh giữa con người và giới tự nhiên là không thể tách rời. Bản thân của thế giới là một kết cấu cộng hưởng sinh tồn, mà Phật giáo chỉ rõ đó là sự tập hợp của 4 yếu tố đất nước gió lửa, nói rộng hơn là sự cấu thành của 5 thủ uẩn giả hợp, biểu hiện qua sự sinh tồn của từng giai đoạn con người, hoàn cảnh, môi trường. Cho nên, con người và giới tự nhiên là cộng tồn, tương tác cộng sinh lẫn nhau, không có tự nhiên thì con người không thể tồn tại và ngược lại nếu con người không tồn tại thì giới tự nhiên cũng không có ý nghĩa.

Giáo dục Phật giáo với bảo vệ môi trường nghĩa là đem tinh t hần giáo dục Phật giáo áp dụng vào việc bảo vệ môi trường. Môi trường nói đầy đủ là môi trường tự nhiên. Theo cách nghĩ thông thường chúng ta xem yếu tố con người và môi trường tự nhiên trong mối quan hệ chủ thể và đối tượng; sự vật tự nhiên là khách thể phục vụ hữu dụng cho chủ thể con người. Theo cách nghĩ như vậy rõ ràng không thể tồn tại, con người sống nhờ vào môi trường tự nhiên, ngược lại con người phải biết bảo vệ môi trường tự nhiên, có như thế mối quan hệ cộng sinh mới tồn tại lâu dài, con người và hệ thống sinh thái của tự nhiên mới bền vững.

Khái niệm về “tự nhiên” mà chúng ta sử dụng là một khái niệm phức hợp. “Tự nhiên” tức chỉ thực tại khách quan, thế giới vật chất tồn tại không phụ thuộc vào ý thức của con người, đồng thời còn có nghĩa là môi trường tự nhiên. Môi trường tự nhiên ở đây là giới tự nhiên xung quanh xã hội con người, bao gồm nguồn tài nguyên sản xuất và đối tượng lao động nằm trong các loại điều kiện tự nhiên. Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh c on người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, sự phát triển của con người và sinh vật.[1] Hoàn cảnh tự nhiên là cơ sở tự nhiên trong sinh hoạt của con người, sinh tồn và phát triển của xã hội, là vật chất sinh hoạt tất yếu của con người. Nhưng khái niệm môi trường tự nhiên còn bao hàm ý nghĩa tài nguyên tự nhiên. Tài nguyên tự nhiên nói chung là nguồn vật chất tồn tại tự nhiên, như tài nguyên đất đai, khoáng sản, sức nước, động vật, biển sông ao hồ… Tài nguyên tự nhiên là nơi sinh ra nguồn nguyên liệu và bố cục hoàn cảnh. Do đó, có thể biết được “tự nhiên” là nguồn tài nguyên sinh sống và sản xuất nguyên liệu của người hiện đại, là nguồn tài nguyên do con người tiêu hao; nhưng “tự nhiên” không chỉ cung cấp nguồn tài nguyên cho con người tiêu hao mà là môi trường để cho con người dựa vào sinh tồn, do đó, còn gọi môi trường tự nhiên là môi trường sinh thái.

Môi trường sinh thái tức là hệ thống sinh thái, hệ thống sinh thái là do quần thể sinh vật và môi trường cộng đồng sinh tồn tạo thành hệ thống cân bằng, có đủ công năng kết cấu và hệ thống điều tiết đối với sự tuần hoàn vật chất và năng lượng lưu động. Trong đó hệ thống sinh mạng là một yếu tố nhất định trong kết cấu và điều tiết của giới tự nhiên, nó do sự tạo thành của hệ thực vật, động vật và vi sinh vật. Hệ thống môi trường là không gian bao gồm ánh sáng, sức nóng, nước và các loại nguyên tố của giới tự nhiên tương tác tạo thành. Hệ thống sinh thái là sự kết hợp giữa hệ thống sinh mạng và môi trường ở trong một không gian nhất định. Phạm vi lớn hơn là toàn bộ bề mặt quả đất hay toàn bộ hệ thống sinh thái mà con người dựa vào đó để sinh tồn. Ngoài ra, giới tự nhiên của bề mặt quả đất, từng bộ phận đều là hệ thống sinh thái, như một khu rừng, một khoảnh ruộng, một dòng sông, một vùng biển, một cái hồ, một dãy núi, một thôn làng… Khủng hoảng sinh thái là do tác động của con người làm cho vùng hay toàn bộ kết cấu và công năng của hệ thống sinh thái bị phá hoại, trở lại uy hiếp sinh tồn và phát triển của con người. Do đó, nhìn toàn bộ hệ thống thì con người và tự nhiên đều có vị trí quan trọng như nhau. Trước mắt, môi trường sinh thái và hệ thống sinh thái của quả đất đang trên đà hình thành, con người xuất hiện cùng với hệ thống động vật đều dựa vào quyết định của sinh thái; sự sinh tồn và phát triển c ủa con người đều phụ thuộc vào sinh thái, trong chuỗi sinh vật tồn tại không có khái niệm phân biệt khách chủ. Chỉ có thể nói rằng, trong hệ thống sinh thái, sự biến đổi của một hệ thống tất nhiên ảnh hưởng đến hệ thống khác và ngược lại. Bởi vì toàn bộ chỉnh thể cùng nhau quan hệ, cùng nhau tương tác. Sự tồn tại của môi trường sinh thái và con người đều hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức của con người.

Do đó, có thể biết rằng giới tự nhiên và con người, trong mối quan hệ qua lại đó đều là thành viên của hệ thống sinh thái. Nếu chúng ta có quan điểm cho rằng con người là chủ thể và giới tự nhiên là khách thể, chủ thể chinh phục khách thể, con người chủ động, tự nhiên im lặng thụ động. Như vậy chúng ta không những nhầm lẫn trong việc giải thích và làm cho hậu quả càng nghiêm trọng – không những làm cho mối quan hệ song song càng đi đến phức tạp, mà thực tế đem lại cho con người nhiều bất lợi – giới tự nhiên bị phá hoại, đồng thời phá hoại cả điều kiện sinh tồn của bản than loài người. Vì thế việc cho rằng “vật dưỡng nhân” là một chân lí thì con người quá ích kỉ và hiểu biết của con người quá hạn chế.

Giáo dục Phật giáo thể hiện mối quan hệ hài hòa, mọi sự vật trên thế gian này đều tồn tại theo lý duyên sanh, tức cái này có thì cái kia có; cái này sanh, thì cái kia sanh. Đối với Phật giáo, việc bảo vệ môi trường sinh thái là nhiệm vụ của con người, do ý thức của con người, đặc biệt là do con người tạo nên (nhứt thiết duy tâm tạo – Kinh Hoa Nghiêm). Vì vậy giáo dục Phật giáo với môi trường thể hiện qua việc tu tập và thực hành một số hình thức mà Đức Phật đã dạy trong hệ thống giáo lí và triết học đạo đức của Phật giáo.

II. Nội dung

1. Giáo dục Phật giáo với môi trường qua thuyết Duyên Sinh

Vấn đề môi sinh là vấn đề nóng bỏng mà nhân loại đang rất quan tâm. Khủng hoảng môi sinh là sự ô nhiễm môi sinh do các phóng xạ, sự phân hạch, bụi bặm thiên nhiên tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt, nạn ô nhiễm không khí, nước và đất đang báo động. Các thử nghiệm bom nguyên tử, vũ khí hoá học, các khí độc thoát ra từ các nhà máy công nghiệp, nạn săn bắt phá rừng, dẫn đến thiên tai hoả hoạn, hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh lan tràn... Đây là hậu quả của việc phát triển công nghệ, lạm dụng thái quá khai thác mỏ, dầu khí, quặng. Như vậy, bảo vệ môi sinh cần được thực hiện triệt để càng sớm càng tốt. Một triết lý giáo dục môi sinh cần được phát triển và phổ biến sâu rộng đến con người và thiên nhiên đó là thuyết duyên sinh. Thuyết này không phải do đức Phật nói ra mà Ngài quán thấy nó tồn tại một cách tự nhiên, đó là cái này sinh cái kia sinh, cái không có mặt cái kia không có mặt. Đây là mối quan hệ hỗ tương của các sự vật, tồn tại cùng nhau, không có chủ thể và khách thể. Để từ đó con người có thể tự nguyện bảo vệ môi sinh cũng là chính bảo vệ mình. Cũng từ thuyết Duyên Sinh chúng ta lí giải t hích các hiểm họa do ô nhiễm môi sinh gây ra tác động trực tiếp lên con người và do con người tác động tiêu cực vào thế giới tự nhiên.

Qua thuyết Duyên Sinh, chúng ta hiểu được con người và giới tự nhiên gần gũi không tách rời, là một bộ phận của sự hình thành hệ thống môi sinh. Hay nói cách khác, con người có mặt thì tự nhiên có mặt, hoặc giới tự nhiên không có mặt thì con người không có mặt. Cho nên việc con người tác động vào giới tự nhiên một cách tiêu cực thì sự có mặt hay diệt vong của con người cũng không sớm thì muộn phải chịu chung số phận.

Ngoài ra, thuyết Duyên Sinh còn cho thấy bản thân của mỗi sự vật đều sinh ra cũng theo quy luật này, thân 5 uẩn là sự tập hợp của các nhân duyên (12 nhân duyên), không có một nguyên nhân tạo thành (chúa tể) mà do nhiều nhân duyên tạo thành (nhân duyên), nên không có thật ngã. Đã không có thật ngã thì sự ham muốn của con người về sự lợi lộc vật chất của cải và uy quyền bắt nguồn từ tà tư duy chỉ gây ra khổ đau cho nhân loại. Trong tác phẩm Lí Thuyết Nhân Tính Qua Kinh Tạng Pali của Hòa thượng tiến sĩ Thích Chơn Thiện chỉ ra giáo dục Phật giáo giải đáp cho khủng hoảng môi sinh:

- Giáo dục con người nhận thức mối liên hệ mật thiết giữa con người và thiên nhiên qua giáo lý Duyên Khởi và Năm uẩn ngõ hầu con người có t hể tự nguyện bảo vệ môi sinh.

- Giải thích các hiểm họa do ô nhiễm môi sinh gây ra.

- Chỉ rõ rằng ham muốn của con người về lợi lộc và uy quyền có thể gây ra khổ đau cho con người.

- Gợi ý những gì phải làm cho việc bảo vệ môi sinh.[2]

Thuyết Duyên Sanh còn giáo dục con người biết quy luật nhân quả, gieo nhân gì gặp quả đó, hay “gieo gió sẽ gặp bão”, nhờ đó chúng ta có cách ứng xử đúng đắn với môi trường thiên nhiên, một thành viên thân thiện của con người sống trên hành tinh này.

2. Giáo dục Phật giáo với mô i sinh qua sự tu tập tâm từ bi

Sự phát triển kinh tế và kỹ nghệ đòi hỏi đến sự chú trọng giáo dục con người xã hội, trong khi một nền giáo dục nhân bản thì yêu cầu giáo dục con người chính nó. Nếu con người tốt thì xã hội mới tốt, thế giới thanh bình. Con người tốt phải thông qua sự tu tập tâm từ bi, yêu thương và hiểu biết lẫn nhau, sự sống của người này là sự sống của người khác, không có ai tồn tại dù chỉ một mình. Con người chính nó là con người phải hiểu sự thật của chính mình và biết làm thế nào để đạt hạnh phúc trong hiện tại và tại đây. Vấn đề này đã được đức Phật dạy: “Mình là chủ nhân của chính mình, không ai khác là chủ nhân của mình. Người tự khéo chế ngự mình sẽ thấy được vị chủ nhân khó tìm thấy ”. (Kinh Pháp Cú . 160)

Như vậy con người tìm thấy chủ nhân của chính mình chỉ có được qua việc thực hành tâm từ bi, vì khi con người không có tâm từ bi, không thực hành tâm từ bi thì họ bị tham lam, ích kỉ dắt dẫn trở nên mê muội và không còn thấy sự sống tồn tại tương quan tương duyên, mà chỉ thấy cho riêng mình.

Lòng từ bi được đức Phật dạy, “Hận thù không bao giờ xóa bỏ được hận thù; chỉ có tình thương mới xóa bỏ được hận thù .” Ngài cũng khuyên mọi người hãy, “điều phục sân hận bằng tình thương.” Tâm Từ và tâm Bi cũng là liều thuốc giải độc hữu hiệu cho tâm sân, giận, thù oán… khởi lên trong mỗi chúng ta. Chúng ta biết rằng tinh thần tiêu cực có thể sản sinh ra những độc tố phá hủy sức khỏe thân thể lẫn tinh thần. Trong số độc tố khác nhau ấy, tâm hận thù bị dồn nén tạo nên sự hỗn loạn của tâm lý, là nguy cơ đưa đến chứng rối loạn thần kinh và bệnh trầm cảm. Ngoài ra tâm Từ bi giúp chúng ta không những còn tôn trọng con người với con người, mà còn cả những loài động vật hữu tình và loài vô tình (giới tự nhiên). Đức Phật khuyên hàng đệ tử của Ngài không được đổ đồ dơ lên cây cỏ, không được dẫm đạp lên cây cỏ, không được ngắt lá bẻ cành một tàng cây. Đặc biệt là sau khi thành đạo Đức Phật đã ngồi nhìn ngắm cây Bồ Đề suốt 1 tuần lễ để cảm ơn sự che chở của cây trong suốt những ngài Ngài ngồi thiền định và tìm thấy sự giác ngộ.

Nuôi dưỡng và tu tập lòng từ bi là chính chúng ta yêu thương và độ lượng với chúng sanh, chúng ta bảo vệ đồng loại và tạo cho môi trường sinh thái một không khí tươi vui cộng sinh. Giáo dục Phật giáo chú trọng đến từ bi, vì từ bi sẽ là cam lồ tưới mát sự khô cằn và khốc liệt của những vô minh, ích kỉ. Tu tập lòng từ là chúng ta xây dựng thế giới cộng sinh, yêu hòa bình và bảo vệ môi trường tốt đẹp.

Theo quan điểm của Phật giáo, sở dĩ con người luân hồi trong Lục đạo là do vô minh phiền não mà tạo tạo nhiều ác nghiệp, từ kiếp này đến kiếp khác trôi lăn trong sinh tử, có khi làm người có khi làm súc sanh, khi lên trời khi xuống địa ngục, vì vậy chúng ta cũng đã từng như vậy thì phải thương tưởng đến mình và đến họ mà phát tâm từ bi cứu độ, bảo vệ và che chở.

Một người tu tập tâm từ bi, họ không những yêu quí và tôn trọng mọi người, mọi loài và thiên nhiên, mà họ còn thương yêu đối với những người tạo nên nghịch cảnh cho mình và xem đó là một nghịch hạnh cho việc tu luyện tâm từ bi. Nhờ đó mà chúng ta biết yêu quí đồng loại, giúp đỡ người yếu, bảo vệ muôn thú và giới tự nhiên, giúp mọi loài sống hòa đồng trong môi trường sinh thái bền vững.

3. Giáo dục Phật giáo với môi sinh qua sự thanh lọc tâm (thực hành thiền định)

Một người hỏi một vị Thiền sư rằng trong thời đại ngày nay, mọi người đang cố gắng tham gia việc bảo vệ môi trường, còn Thiền sư ngồi đây thực tập thiền có ích gì? Thiền sư lời rằng những người thực tập thiền không thải ra môi trường những ý niệm nhiễm ô. Thiền sư đã chỉ cho chúng ta biết rằng tâm nhiễm ô mới dẫn đến môi trường nhiễm ô.

Thực hành thiền định là phương tiện thanh lọc tâm hữu hiệu. Thế thường chúng ta than van về vấn đề ô nhiễm môi trường, nhưng chúng ta chưa nhận thấy ô nhiễm tâm hồn còn nguy hại hơn. Nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường là do tâm hồn của chúng ta ô nhiễm. Tâm hồn chúng ta luôn bị sự cạnh tranh, tham lam và ganh tị chiếm lĩnh, cho nên dẫn đến hành động ích kỉ, tàn bạo và mê loạn, lời nói chúng ta nhiễm ô, thô bạo. Tâm nghĩ, thân làm và miệng nói điều bất thiện, đó là nguyên nhân dẫn đến tinh thần ô nhiễm, xã hội ô nhiễm; chặt phá rừng, khai thác tài nguyên thiên nhiên vô tội vạ, thải vào không khí và môi trường chất độc hại. Tất cả đều phát xuất từ tâm hồn nhiễm ô.

Con người với tâm nhiễm ô, chỉ có thông qua thiền định để thanh lọc tâm. Một người biết thanh lọc tâm bằng thiền định, người đó làm cho thân tâm an tịnh, đưa vào thiên nhiên một năng lượng trong sạch, năng lượng của từ bi. Ngược lại, với một tâm hồn giận dữ và sợ hãi, chúng ta sẽ tạo ra môi trường hủy diệt. Lối sống tham lam và ích kỉ là nguyên nhân của sự nhiễm ô tâm hồn. Chúng ta vì hạnh phúc các nhân mà làm hại đến người khác và môi trường xung quanh; hạnh phúc chân thật chỉ có được khi chúng ta có một tâm hồn thanh tịnh, qua thiền tập chúng ta có cơ hội nhìn lại chính mình, tiến xa hơn vào lãnh vực quán chiếu, hiểu được nguồn gốc tham sân si, thay năng lượng nhiễm ô bằng năng lượng trong sạch và giải thoát.

Qua việc thực hành thiền định, chúng ta có thể chuyển hóa môi trường và gặt hái năng lượng điều trị và chuyển hóa cho chính mình và cho môi trường. Khi mọi người biết thực hành thiền tập, chúng ta sẽ có năng lượng chuyển hóa thân tâm, kiến tạo ra một môi trường tốt và đây là một nhóm năng lượng sạch, giúp môi trường ngày càng cải thiện tốt hơn.

Đối với Phật giáo Đại Thừa, một hành giả hành Bồ Tát hạnh không những cứu độ chúng sanh hữu tình, mà còn hiện thân làm cây thuốc (hiện vi dược thảo) để cứu chữa cho muôn loài. Thiền sư Thích Nhất Hạnh viết kệ: “Xin làm một cành hoa, tặng phẩm của t rời đất, hoa là vị Bồ tát, làm đẹp cho cuộc đời.

Thực hành thiền tập giúp chúng ta thoát khỏi khổ đau, hòa mình với thiên nhiên môi trường, tạo một nguồn năng lượng tốt cho bản thân và cộng đồng và cho môi trường.

4. Giáo dục Phật giáo với môi sinh qua việ c trì giới (thực hành các nguyên tắc đạo đức)

Phật giáo lấy việc gìn giữ giới luật làm nguyên tắc để trau dồi tư cách đạo đức, hoàn thiện cá nhân. Ngoài ra trì giới giúp ta có thể tăng trưởng định lực và phát huy trí huệ. Người Phật tử tại gia giữ 5 giới căn bản, tức không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh, không nói dối và không sử dụng chất gây nghiện; người xuất gia gìn giữ nhiều hơn nhưng cũng không ngoài giới luật căn bản và tinh tế.

Không sát sanh, người Phật tử không những tôn trọng sự sống của chúng sanh mà còn bảo vệ và giúp đỡ muôn loài sinh vật cùng sống, tạo sự cân bằng sinh thái và hòa bình của muôn loài. Hơn nữa, đối với môi trường sinh thái không được khởi lòng tham mà vô tình hủy diệt các nguồn vật chất tự nhiên Không ăn trộm hay lấy của không cho, người Phật tử không những không được lấy của người khác mà còn phải biết gìn giữ cho người khác, giúp người khác và muôn loài có được đời sống an lạc và sung túc. Đới với cây cỏ phải biết tôn trọng, chăm sóc và gìn giữ duy trì sức sống của thực vật.

Không nói dối, người Phật tử được bảo vệ trong niềm tin chân chánh, lời nói đúng đắn và tôn trọng chân lí. Không được vì tham lam mà dối mình, dối với động vật để thỏa mãn dạ dày; dối với loài vô tình để chặt phá, đào bới, khai thác tận kiệt nguồn t ài nguyên.

Không tà hạnh, người Phật tử gìn giữ hạnh phúc cho mình và cho người khác, tạo sự ổn định dân số và sinh thái. Đối với nhau như ruột thịt, không xâm phạm tiết hạnh của người khác, xây dựng gia đình tốt đẹp, xã hội an bình và môi trường cộng cư phát triển cân bằng.

Không được sử dụng rượu bia và chất gây nghiện, người Phật tử không sử dụng các loại rượu, vì rượu làm cho trí óc con người thiếu minh mẫn, dễ làm việc sai quấy. Chất gây nghiện làm cho con người mất cân bằng tâm lí, ủ rũ hoặc lãng đãng, ảnh hưởng đến sức khỏe và tinh thần, làm mất ổn định xã hội và môi trường sinh hoạt.

Khi đề cập đến nguyên tắc đạo đức Phật giáo đối với vấn đề môi trường là đề cập đến cách nhìn của Phật giáo đối với con người cũng như mọi loài vô tình như rừng, muông t hú, hệ sinh thái, thiên nhiên. Nguyên tắc trong đạo đức học Phật giáo được đặt ra ở đây là để phát triển lòng từ bi trong con người và tránh gây hại cho mọi loài tự nhiên. Đạo đức Phật giáo đối với môi trường không những áp dụng cho sự gấp rút của ngày hôm nay mà đã áp dụng trong quá khứ và cho cả tương lai. Do đó chúng ta áp dụng lời dạy của đức Phật đối với môi trường thiên nhiên, và thái độ hành xử của người Phật tử đối với môi trường sinh thái.

III. Tổng kết

Tất cả những hình thức giáo dục trên của Phật giáo không ngoài mục đích mang lại an lạc và hạnh phúc đích thực cho mình, cho mọi người và cho môi trường. Đức Phật đã chỉ ra cho chúng ta một con đường tu chân chánh, mở ra cho nhân loại một con đường mới, áp dụng vào đời sống sẽ đem lại cho chúng ta lợi lạc đích thực và hướng về mục đích giải thoát, đó là Bát Chánh Đạo, bao gồm Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh Ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định. Trong đó, Chánh mạng là yêu cầu mọi người chú trọng thể hiện trách nhiệm đối với việc làm của mình ảnh hưởng đến xã hội và tương lai. Chẳng hạn như công việc gây ảnh hưởng xấu cho con người và môi trường trong tương lai thì vi phạm vào Chánh mạng. Bất cứ công việc gì có nguyên nhân dẫn đến phá hủy môi trường như thải ra chất độ c, phá rừng và khai thác vô tội vạ nguồn tài nguyên thiên nhiên, được xem là vi phạm đến đời sống tu tập Chánh nghiệp. Với bất cứ công việc gì liên quan đến việc phá hoại môi trường như công nghiệp nguyên tử, sản xuất chất độc hại, chất nổ và chất thải gây thiệt hại đến tài nguyên biển cũng đều vi phạm đời sống Chánh nghiệp.

Đối mặt với vấn đề sinh tồn của loài người, Phật giáo có trách nhiệm cứu khổ cứu nạn, giáo lí Phật giáo không tách rời với những thành viên của môi trường sinh thái, trong đó con người là một thành viên đặc thù, làm cho môi trường phát triển bền vững. Phật giáo chủ trương vô ngã cũng đồng nghĩa bất nhị với môi trường, hướng con người đi vào chánh kiến, tư duy đúng đắn, lời nói chân thật, hành động hướng thiện, việc làm có trách nhiệm, si êng làm các hạnh lành, khéo suy nghĩ và tu tập thanh lọc tâm. Đó là con đường chân chánh mà chúng ta cần giới thiệu rộng rãi đến với nhân loại, một thông điệp hòa bình và bảo vệ môi trường sinh thái hữu hiệu nhất./.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/06/2024(Xem: 2677)
Cùng toàn thể giới tử thọ trì Bát quan trai giới một ngày một đêm tại trú xứ Tăng già-lam Phước duyên, thành phố Huế, hiện diện quý mến. Một ngày một đêm quý vị ở trong Tịnh giới với niềm tin thanh tịnh, kiên cố, bất hoại đối với Tam bảo. Nhờ niềm tin này mà quý vị không để cho Giới pháp của mình bị sứt mẻ ở trong đi, ở trong đứng, ở trong nằm, ở trong ngồi, ở trong sự nói năng, giao tiếp. Quý vị có được niềm tin này là nhờ quý vị nuôi lớn sáu tính chất của Tam bảo, khiến cho ba nghiệp của quý vị được an tịnh, an tịnh về thân hành, an tịnh về ngữ hành, an tịnh về ý hành. Sáu tính chất của Tam bảo, quý vị phải thường quán chiếu sâu sắc, để thể nhập và tạo ra chất liệu cho chính mình, ngay đời này và đời sau. Sáu tính chất của Tam bảo gồm:
30/04/2024(Xem: 2253)
Những lời trích dẫn trên đây thật đanh thép và minh bạch, chữ vu khống trong câu trích dẫn trên đây trong bản gốc bằng tiếng Pali là chữ abbhācikkhanti (abhi + ā + cikkh + a), các tự điển tiếng Anh dịch chữ này là accusation, calumny, slander…, có nghĩa là kết án, phỉ báng, vu khống…. Thế nhưng trong khi viết lách hay thuyết giảng đôi khi chúng ta không nghĩ đến những lời cảnh giác trên đây của Đức Phật. Sau hơn hai mươi lăm thế kỷ quảng bá, xuyên qua nhiều vùng địa lý, hòa mình với nhiều nền văn minh và văn hóa khác nhau, nền Tư tưởng và Giáo huấn của Đức Phật đã phải trải qua nhiều thử thách, thích ứng với nhiều dân tộc, do đó thật khó tránh khỏi ít nhiều biến dạng và thêm thắt. Thế nhưng thực tế cho thấy trong suốt cuộc hành trình kỳ thú và vĩ đại đó – nếu có thể nói như vậy – nền Tư tưởng và Giáo huấn đó của Đức Phật vẫn đứng vững và đã góp phần không nhỏ trong công trình cải thiện xã hội, nâng cao trình độ văn hóa, tư tưởng và mang lại ít nhất là một chút gì đó lý tưởng hơn, cao đ
30/04/2024(Xem: 2481)
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu: “Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” Có nghĩa là: “Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
18/02/2024(Xem: 3017)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 5898)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
20/01/2024(Xem: 2195)
Thông thường người ta vào học Phật ít nhiều cũng do có động lực gì thúc đẩy hoặc bởi thân quyến qua đời, hoặc làm ăn thất bại, hoặc hôn nhân dở dang v.v... nhưng cũng không ít người nhân nghe giảng pháp hay gặp một quyển sách khế hợp căn cơ liền phát tâm tu hành hay tìm hiểu học Phật pháp. Phần lớn đệ tử xuất gia hoặc tại gia của Hòa Thượng cũng vì cảm mộ pháp giải của Ngài mà quy y Phật. Quyển vấn đáp này góp nhặt từ những buổi giảng thuyết trong các chuyến hoằng pháp của Hòa Thượng, hy vọng cũng không ngoài mục đích trên, là dẫn dắt người có duyên vào đạo hầu tự sửa đổi lỗi lầm mà giảm trừ tội nghiệp.
20/01/2024(Xem: 2330)
Năm xưa khi Phật thuyết kinh, hoàn toàn dùng khẩu ngữ vì bấy giờ nhân loại chưa có chữ viết (xứ Ấn). Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử Phật mới kết tập laị những gì Phật dạy để lưu truyền cho đời sau. Đạo Phật dần dần truyền sang các xứ khác, truyền đến đâu thì kinh điển cũng được phiên dịch sang ngôn ngữ của xứ ấy. Lúc ban đầu kinh Phật được ghi chép bằng tiếng Phạn ( Sancrit, Pali ) sau đó thì dịch sang tiếng: Sinhale, Pakistan, Afghanistan, tiếng Tàu, Thái, Nhật, Hàn, Việt… và sau nữa là tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha…
20/12/2023(Xem: 2780)
Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ (Bạch X. Khỏe) định cư ở Hoa Kỳ từ năm 1991, hiện đang giảng dạy Hóa học và Hóa học danh dự cho Trường trung học Mira Loma tại thủ phủ Sacramento, CA. Ông quy y với Thiền sư Trừng Quang Thích Nhất Hạnh, có Pháp danh là Tâm Thường Định. Ông đã và đang giảng dạy về Lãnh đạo chánh niệm và phương thức mang chánh niệm vào học đường ở bang California từ năm 2014. Tiến sỹ Bạch cũng giảng dạy cho chương trình huấn luyện giáo viên. Ngoài ra, ông còn tham gia nhiều công việc xã hội trong cộng đồng. Tháng Ba 2023, TS Bạch Xuân Phẻ được Hiệp hội Giáo viên California (California Teachers Association) vinh danh vì những đóng góp giáo dục thực hành chánh niệm của ông. TS Bạch Xuân Phẻ cũng được trao Giải thưởng Nhân quyền người Mỹ gốc Á Thái Bình Dương năm 2023 của bang California (Human Right Awards).
19/12/2023(Xem: 8131)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com