Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần III: DI HUẤN CỦA DIPA MA

24/05/201316:24(Xem: 3400)
Phần III: DI HUẤN CỦA DIPA MA

66dipa166dipa2

DIPA MA

Cuộc Ðời Và Di Huấn

DIPA MA -- The Life and Legacy of A Buddhist Master

AMY SCHMIDT

Thiện Nhựt dịch

---o0o---

Phần III: Di huấn của Dipa Ma

Chương 11: Mười bài học để sống đời

Tiểu sử của Dipa Ma là một truyện thần kỳ kiễu mẫu của những người đang đi tìm con Ðường giải thoát. Các giai đoạn được mô tả -- dấn bước, phát nguyện, đối đầu và khắc phục các khó khăn, tìm ra được sự giải thoát, và chia xẻ các sự khám phá của mình với người khác trên thế gian -- đi song hành chặt chẽ với các giai đoạn mà chính Ðức Phật đã trải qua con đường chuyển hoá.

Sau khi đại giác ngộ dưới cội cây bồ đề, Ðức Phật đã tuyên lên Bốn Chơn Lý Nhiệm Mầu: thứ nhứt, có sự khổ và khổ là dấu ấn tín đóng lên tất cả mọi hiện hữu bị điều kiện hoá; thứ hai, nguyên nhân của khổ là sự luyến ái; thứ ba, có thể tận diệt khổ được; và thứ tư, có con đường, được Ngài kể ra rõ tất cả chi tiết, tránh xa được sự khổ và dẫn đến mục tiêu hằng ôm ấp là sự giải thoát. Sự tu tập theo Phật đạo, nói cách thật tóm tắt và giản dị, là sự chấm dứt đau khổ cho chúng ta và cho tất cả chúng sanh.

Chính sự thầm hứa nguyện -- rằng đau khổ của chính tôi sẽ chấm dứt -- trước đã thúc dục tôi tìm đến sự tu tập thiền quán. Và chính tấm gương cuộc đời của Dipa Ma đã đem lại cho tôi lòng tự tín để dấn bước lên con đường tu tập. Là một người đàn bà, một người mẹ, một người nội trợ, Dipa Ma đã chỉ rõ con đường Thánh đạo của Ðức Phật đang mở rộng cho tất cả mọi người, và mục tiêu vĩ đại được giải thoát ngay trong cuộc đời nầy.

Những đoạn sau đây là những bài học tôi đã rút ra từ các lời giảng căn bản của Dipa Ma. Nguyện cầu các bài học đó sẽ giúp ích cho bạn, trên con đường giải thoát.

Bài Một: Chọn một cách thực tập thiền quán và đeo theo cách ấy mãi.

"Nếu bạn muốn có tiến bộ về thiền quán, phải kiên trì giữ theo một kỹ thuật duy nhứt mãi."

Ðối với những người mới bắt đầu theo con đường tu tập tâm linh, Dipa Ma khư khư bảo phải trung thành tuân theo một kỹ thuật về thiền quán đã chọn. Ðừng bỏ cuộc, và đừng nhảy từ kỹ thuật nầy sang kỹ thuật khác. Hãy chọn một kỹ thuật hợp với bạn và theo đuổi mãi cho đến khi bạn thấy được "bờ ranh", tức là tại nơi điểm mà các khó khăn bắt đầu nổi dậy.

Lỗi thông thường của nhiều người Tây phương đang theo con đường tâm linh là xem các khó khăn như một bài toán nan giải đối với một sự thực tập nào đó. Thế rồi, khi tình trạng trở nên ngặt nghèo, thì liền chạy quanh để tìm thuốc chữa. Ðứng từ đỉnh núi nầy (nơi đang gặp khó khăn) trông sang núi nọ, thì thấy các kỹ thuật khác bao giờ cũng tốt hơn ở đây. "Có lẽ ta nên tu tập theo lối "ca ngâm" Tây tạng,.. hoặc theo lối "nhảy múa" Sufi (phái mật tông Hồi giáo tu khổ hạnh)". Thật ra, các sự khó khăn gặp phải, thường thường là một triệu chứng đáng tin cậy rằng sự thực tập đang được trôi chảy.

Hãy suy nghĩ thật chín chắn, cặn kẽ, về lời khuyên của Dipa Ma. Nên cứ đeo đuổi mãi một lối tu tập mà bạn đã chọn, xuyên qua khó khăn và ngờ vực, xuyên qua cảm hứng cùng trì trệ, xuyên các thăng trầm chẳng thể tránh được. Nếu bạn giữ vững lòng trung thành với sự thực tập bạn đã nguyện chọn, xuyên qua thời kỳ đen tối, ánh bình minh trí huệ sẽ lố dạng.

Bài Hai: Phải ngồi thiền mỗi ngày.

"Phải tập ngay bây giờ. Ðừng tưởng bạn sẽ làm nhiều hơn về sau."

Dipa Ma kiên quyết tuyên bố rằng, nếu bạn muốn được an lạc, bạn phải tu tập đều đặn. Bà nhấn mạnh là các thiền sanh phải tìm ra thời giờ để tu tập mỗi ngày, ngay cả khi chỉ có được năm phút thôi. Nếu cả điều đó mà cũng chẳng thể có được, thì bà lại nói, " Ít nhứt là khi lên giường đi ngủ, bạn chỉ cần theo dõi một hơi thở vào và một hơi thở ra, trước khi bạn nhắm mắt ngủ."

Ngoài việc tọa thiền chánh thức, ngồi trên toạ cụ, Dipa Ma còn thúc dục các thiền sanh của bà phải dùng tất cả mọi thời, mọi lúc trong cuộc sống để tập thiền quán. Nhiều thiền sanh rất bận rộn, thấy rất khó mà để riêng ra một chút thời giờ nào cả. Dipak Chowdhury thưa với Dipa Ma rằng, chẳng thể nào thực tập được hết, vì thời biểu công tác của ông thật đầy ăm ấp, ở ngân hàng nơi ông làm việc. Ông bảo rằng, ông phải làm toán cả ngày, phần vụ của ông lại đòi hỏi ông phải di chuyển tới lui luôn, thật là bận rộn và lăng xăng, làm sao mà nghĩ đến thiền quán được. Nhưng Dipa Ma chẳng muốn nghe như thế, bà cứ bảo, "Nếu bạn bận rộn đấy, cứ lấy ngay sự bận rộn đó để thiền quán." Bà dạy tiếp, "Khi bạn đang làm toán, hãy nhận biết rằng bạn đang làm toán. Thiền quán chính là nhận biết rõ việc mình đang làm. Nếu bạn đang vội vã đi vào sở làm, thì bạn hãy nhận biết là bạn đang vội vã. Khi bạn đang ăn, đang mang giầy, mang vớ, đang mặc quần áo, bạn phải giữ chánh niệm trong khi làm các việc đó. Ðấy là cả một sự thiền quán đó. Ngay cả khi bạn đang cắt móng tay, cũng nên để tâm trí vào việc cắt móng tay đó nữa: nhận biết rõ là bạn đang cắt móng tay."

Ðối với Dipa Ma, sự tỉnh thức chẳng phải là điều mà bà cố tạo nên, mà sự tỉnh thức chính là bà, bà đang như thế ấy -- trong tất cả mọi thời, mọi lúc. Thái độ tốt nhứt để tập thiền, theo ý bà, là lòng tin cậy và thiện chí. Khi tâm trí bạn đi vẩn vơ, chỉ cần bắt đầu tập lại lần nữa. Dipa Ma bảo rõ rằng, chẳng có điều gì hỏng khi gặp nhiều lúc thiếu tỉnh thức. "Sự thiếu tỉnh thức thường xảy ra cho mọi người. Ðó chẳng phải là một vấn đề khó khăn thường trực." Ngay khi ta đã mất cả nỗ lực và quyết tâm, bà khuyên ta chỉ cần nên nhận biết rõ tâm trạng đó và rồi chuyển ngay sang một hình thức tu tập khác -- đi thiền hành, theo dõi và ghi nhận các hoạt động thông thường, hoặc là ngồi toạ thiền -- trong đó sự quyết tâm đang hiện diện

Bài Ba: Xử dụng mọi trường hợp.

"Mỗi người chúng ta đều có năng lực vĩ đại. Hãy dùng năng lực đó để tự cứu mình và giúp đỡ kẻ khác."

Ðức Phật Thích ca đã rời vợ và con để lên đường tìm sự giác ngộ. Nhưng Dipa Ma, vì hoàn cảnh bó buộc, đã tự tìm ra con đường giải thoát cho mình, ngay trong khung cảnh gia đình, làm mẹ và nội trợ. Thông điệp của bà gởi đến cho tất cả phụ nữ ở khắp nơi là, "Bạn chẳng cần phải rời khỏi gia đình bạn mới có thể đạt đến được các chứng đắc nội tâm và trí huệ cao tột. Bạn có thể vừa là vợ, là mẹ, lại vừa theo đuổi con đường đạo pháp được."

Mặc dầu ngay tự buổi đầu bà nghĩ là bà phải lìa con gái bà để đi đến tu viện và tu tập trong sự độc cư, nhưng về sau, Dipa hiểu ra được rằng, bà có thể mang cả gia đình trên vai mà dấn bước vào con đường đạo pháp. Ðường lối của bà là một sự hội nhập triệt để -- tất cả, kể luôn cái bồn nước rửa chén trong bếp.

"Trên thế gian nầy, chẳng có bất cứ sự vật gì mà ta nên bám níu lấy," Dipa Ma dạy, "nhưng ta có thể tìm lấy chỗ hữu dụng của mọi sự vật trên thế gian. Cuộc sống chẳng phải là để chối bỏ đi. Ðời sống có mặt ở đó. Và trong bao lâu mà đời sống vẫn còn đấy và chúng ta còn ở đây, chúng ta có thể đem nó ra xử dụng một cách thật tốt đẹp nhứt."

Dipa Ma chẳng hề mê luyến một vị sư phụ đặc biệt nào, hoặc một điạ điểm nào, hay một lối sống nào cả. Toàn thể thế giới là tu viện của bà. Sharon Kreider còn nhớ rằng, "Vào tuổi đôi mươi đầy lý tưởng mộng mơ của tôi -- khi tôi muốn tin rằng nếu tôi chịu ngồi đủ lâu bên cạnh vị thầy giỏi, thì mọi việc sẽ được vừa ý -- bà chỉ cho tôi thấy rằng đó là chuyện phải tỉnh giác càng nhiều hơn nữa. Bà là một tấm gương sáng cho cả thế giới, làm thế nào mới trở nên một bà mẹ thật sự. Làm một bà mẹ thật sư là cảm được sức sống mãnh liệt. Làm một bà mẹ thật sự là mở rộng vòng tay ra đón nhận tất cả những gì tìm đến, với sự tỉnh giác, và nhận mọi hoàn cảnh như vị thầy của mình.

Bài Bốn: Tập nhẫn nhục.

"Nhẫn nhục là đức tánh quan trong nhứt để phát triển tỉnh giác và định lực."

Nhẫn nhục được tôi luyện bằng cách luôn luôn đối đầu với "bờ ranh"(dịch gượng chữ the edge). Nếu bạn kiên trì theo cách tu tập thiền định, chẳng thể nào bạn tránh khỏi được những lúc mà các sự khó khăn nổi lên. Trong những trạng huống đầy thách thức nhứt, chỉ cần giản dị biết mình có mặt ở đấy, có thể đây là điều duy nhứt có thể làm được -- và như thế kể cũng đã đủ rồi.

Kate Wheeler kể lại một thí dụ nhẫn nhục như thế trong đời của Dipa Ma: "Bà đã nhìn thấy rõ tâm bà trải qua mọi sự thống khổ và bà đã đủ năng lực để ngồi thiền cho nó trôi qua. Sau đó, khi bà xuất ra khỏi cảnh lửa đỏ đó, thì có một cái gì rất quyết tâm đáng sợ trong ánh mắt bà nhìn vào bạn, bởi vì bà đã tự thấy rõ bà. Chẳng có chỗ nào để che giấu. Bà nêu gương cho bạn thấy, chẳng phải chỉ cần ngồi yên (toạ thiền) đấy mà nghĩ tưởng đến lúc chứng đắc được sự giải thoát. Bạn cần phải nắm vững các sự thật nầy và ghi vào trong tâm bạn ở mức độ nào thâm sâu nhứt."

Dipa, con gái của bà, thuật lại đức tánh kiên nhẫn của mẹ như sau: "Một ngày trước hôm mẹ tôi mất, thằng Rishi bấy giờ được mười một tuổi, giở chướng ngỗ nghịch lên, khi tôi sửa soạn sắp đi làm. Tôi giận lắm, và định quất cho nó một trận. Nó chạy núp vào mẹ tôi. Bà chẳng để tôi được đụng vào mình nó. Tôi bực tức và hét to lên, "Má chẳng thấy nó làm cho con tức muốn chết hay sao, con phải đánh phạt nó!" Mẹ tôi dịu dàng, nhỏ nhẹ, bảo tôi, "Nầy Dipa con, con là con gái của mẹ, con cũng đã có lần rất kỳ khôi với mẹ. Nhưng mẹ đâu có liệng con ra khỏi nhà vì đã ngỗ nghich với mẹ." Rồi với giọng chẫm rãi, mẹ tôi giảng về thái độ âu yếm, ân cần và kiên nhẫn. Ðó là một bài học mà tôi nhớ mãi."

Sự nhẫn nhục cần được thực tập suốt đời mình, cần được phát huy và tinh luyện qua thời gian. Theo Dipa Ma, sự nhẫn nhục rất cần thiết cho sự trưởng thành của tâm trí và do đó là một đức tánh quan trọng nhứt cần được vun bồi.

Bài Năm: Hãy giải thoát tâm của bạn.

"Tâm của bạn còn đầy vọng tưởng"

Dipa Ma chẳng có nói rằng trong tâm có đầy các câu chuyện, mà bà bảo rằng tâm chẳng là gì kháchơn là những câu chuyện. Chúng là những bi hài kịch riêng tư của mỗi người đã tạo nên và gìn giữ mãi một ý nghĩa về tự ngã, "một lý lịch cá nhơn": chúng ta là ai, chúng ta làm gì, những gì chúng ta làm được và làm chẳng nổi. Nếu chúng ta còn chưa ý thức được việc đó, thì những chuỗi dài vô tận của những tư tưởng như thế sẽ lôi kéo chúng ta mãi và hạn chế cuộc sống của chúng ta. Tuy nhiên, các vọng tưởng đó đều chẳng có thực chất.

Dipa Ma thường thách đố sự tin tưởng của các học viên của bà vào các mẩu chuyện của họ, sự luyến ái vào chúng. Khi có ai đó nói rằng, "Tôi chẳng thể làm nổi việc đó", bà liền hỏi ngược lại, "Bạn có chắc như thế không?", hay "Ai bảo thế?", hoặc "Tại sao lại không chớ?". Bà luôn khuyến khích các học viên nên quán sát các mẩu chuyện tư, các vọng tưởng đó, để nhận ra sự rỗng tuếch của chúng, để rồi vượt thoát qua khỏi những hạn chế mà chúng đã áp đặt lên họ. "Hãy dẹp bỏ việc suy nghĩ đi", bà thường thúc dục, "Thiền quán đâu phải là suy tưởng."

Ðồng thời, Dipa Ma dạy rằng, tâm trí chẳng phải là một kẻ thù mà mình cần gạt bỏ đi. Ðúng ra là, nhờ bằng vào tiến trình tỏ ra thân thiện với tâm trí, nhờ được tìm hiểu, biết rõ thêm và được chấp nhận thì tâm trí sẽ hết trở nên một vấn đề khó. Dipa Ma biết rõ sự giải thoát theo sau tiến trình đó, và bà luôn sống trong tâm trạng tỉnh thức vô niệm.

Trong một cuộc phỏng vấn tập thể, Jack Kornfield đã ngây thơ hỏi: "Bên trong tâm trí bà, giống như thế nào vậy?" Dipa Ma mỉm cười, mắt nhắm lại, và lặng lẽ đáp: "Trong tâm tôi, có ba việc: định lực, từ bi và an lạc."

Jack, còn chưa chắc đã nghe rõ đúng, hỏi thêm, "Chẳng còn gì khác nữa sao?". Dipa Ma đáp lại, "Vâng, chỉ bấy nhiêu thôi"

Trong phòng im phăng phắc. Rồi có một vài tiếng thở dài và nhiều nụ cười lặng lẽ, theo sau lời ấp úng nho nhỏ vừa đủ nghe của Jack: "Thật là tuyệt vời!"

Bài Sáu: Hãy dập tắt ngọn lửa tình cảm.

"Sân hận là ngọn lửa".

Khi có người đến thăm Dipa Ma, chẳng kể là ai đó, chẳng kể đến tâm trạng đang nung nấu của khách, chẳng kể đến hoàn cảnh nào của họ, bà đều đối xử với mỗi người bằng tấm lòng từ bi hoàn toàn chấp nhận.

Chúng ta có thể nào cống hiến sự chấp nhận đó đối với các tình cảm đang khởi lên trong tâm chúng ta chăng? Chúng ta có thể nào xem các trạng thái tình cảm của chúng ta như là tân khách để được đón tiếp ân cần chăng? Chúng ta có thể nào giản dị để cho sự giận hờn và các tình cảm khác khởi lên trong tâm chúng ta và trôi qua đi mà chẳng phản ứng theo nhiều cung cách thường gây ra thương tổn chăng?

"Trong đời sống hằng ngày, có rất nhiều chuyện xảy ra chẳng vừa ý mình," Dipa Ma nói, "Ðôi khi, tôi thể nghiệm một sự bực bội, nhưng tâm tôi lại vẫn mát mẻ. Bực bội đến rồi lại qua đi. Tâm tôi chẳng bị khuấy rối vì bực bội. Sân hận là ngọn lửa. Nhưng tôi chẳng cảm thấy nóng chút nào. Nó đến rồi nó tắt lịm đi". Tôi rất phấn khởi trước tấm gương của Dipa Ma, nhưng tôi thường tự hỏi, còn có một vài trường hợp mà sự tức giận dường như cũng thích hợp chăng? Trong một vài hoàn cảnh đặc biệt nào đó, sự sân hận có đáng được xem ít nhứt là chánh đáng chăng? Ðối với Dipa Ma, câu trả lời giản dị cho sự thắc mắc đó là không, sự sân hận chẳng bao giờ tự biện minh chánh đáng được. Và bà đã tìm ra được cách để lèo lái con thuyền đời bà lướt sóng gió mà chẳng vướng bận giận hờn.

Sylvia Boorstein, một nữ thiền sư đã tiếp đón Dipa Ma đến ở trong gia đình bà, vào năm 1980, có nói rằng, chồng bà ta đã có một lần thách thức Dipa Ma về điểm đó. "Dipa Ma đang nói về tầm quan trọng của việc duy trì tâm bình đẳng và tịch tĩnh và vô sân; và chồng tôi mới hỏi bà, "Bà có thể làm đúng như thế chăng? Nếu có người bằng cách nào đó gây hiểm nguy cho cháu Rishi, hăm doạ cháu, bà sẽ phản ứng ra sao?" Dipa Ma bình tĩnh đáp: "Dĩ nhiên, tôi sẽ ngăn người ấy lại, nhưng chẳng có chút tức giận nào."

Bài Bảy: Hãy cứ vui hưởng lạc thú ở dọc đường.

"Tôi rất vui sướng. Nếu bạn đến tập thiền, bạn cũng sẽ vui sướng."

Jack Engler hỏi Dipa Ma, chỗ nào vui thích trong Phật giáo. "Mọi điều đều có vẻ quá u buồn", ông ta nói, "Phải dẹp bỏ đam mê, phải diệt trừ giận hờn, phải quét sạch ham muốn. Trông như một cuộc sống buồn bã, xám xịt. Còn ở đâu là mật ngọt?"

Dipa Ma bật cười to: "Ồ, bạn còn chẳng hiểu! Ðời sống bình thường ngày qua ngày cứ diễn ra giống nhau buồn tẻ lắm. Mọi việc chúng ta kinh nghiệm qua đều được nhìn dưới cùng một màu kiếng. Một khi tham lam, hờn giận và si mê đã được bỏ đi rồi, trong mọi thời, nhìn lại mọi sự vật ta thấy chúng tươi tắn và mới mẻ hơn. Mỗi phút giây là một khoảnh khắc mới. Ðời sống tẻ nhạt trước kia, nay ngày ngày, mọi lúc đều mang đầy ý nhị và thú vị".

Eric Kolvig nhắc lại trong một buổi phỏng vấn tập thể hôm đó, tánh thích đùa bỡn của Dipa Ma được lộ ra dưới một hình ảnh khó mà quên được. Thằng cháu ngoại của bà đang bực tức giận dữ việc gì trong nhà bếp. Nó hét to lên như cho cả thế giới phải biết đến, trong một cung cách thường thấy nơi các "đấng độc tài" hai tuổi. Bà gọi nó đến bên chiếc ghế nệm dài, đặt nó nằm úp trên đùi bà và dỗ dành nói bằng cách đấm nhè nhẹ lên lưng nó để vuốt cơn ấm ức của nó, một lối chúc lành rất hợp với tuổi nó. Có một chiếc xe cam nhông bằng plastic, hai màu xanh, vàng, đang nằm lăn lóc giữa hai bà cháu. Với một vẻ thanh thản sâu xa chưa bao giờ rời khỏi gương mặt bà, bà cúi xuống lượm chiếc xe lên, lật ngược lại, úp ngay... lên trên đầu bà, rồi tiếp tục giảng pháp ngay tại điểm mà bà đang khai triển. Bà giữ món đồ chơi ấy trên đầu bà, suốt thời gian của cuộc phỏng vấn.

Hình ảnh đó khiến tôi luôn luôn nhớ đến bà: vuốt ve lưng đứa bé khóc nhè đang nằm trên đùi và tiếp tục thuyết giảng đạo pháp với chiếc căm nhông plastic màu xanh vàng úp ngược trên đầu mình. Dipa Ma là một chiến sĩ tâm linh vĩ đại nhứt mà tôi được biết đến. Trên đầu bà, chiếc xe plastic trở thành chiếc mũ sắt quí phái của người chiến sĩ. Tôi nói như thế chỉ có nửa phần diễu cợt mà thôi."

Bài Tám: Giản dị hoá.

"Hãy sống cuộc đời bình dị. Một đời sống giản dị bao giờ cũng tốt cho mọi sự. Quá nhiều xa hoa làm chướng ngại cho sự tu tập."

Dẫu rằng Dipa Ma và gia đình bà sống trong hai căn phòng nhỏ hẹp, nhưng hầu hết các tân khách đến thăm thấy hai căn phòng ấy vẫn rộng rãi và chói chan ánh sáng. Một học viên đã nhận xét rằng, trong khi chúng ta ở Tây phương nghĩ rằng cần có thật nhiều khoảng không gian vật lý, còn Dipa Ma thì lại có thật rộng khoảng không gian tâm linh.

Về mọi phương diện, Dipa Ma sống trong sự giản dị đến mức tối đa. Bà ít chịu giao tế hội hè bè bạn. Bà chẳng hề tham gia vào các cuộc nói chuyện chẳng cần thiết. Bà chẳng chịu dự vào các mối quan tâm của người khác, nhứt là các việc than phiền. Kim chỉ nam của bà và cho các học viên của bà là sống sống ngay thật và chẳng bao giờ quở trách kẻ khác.

Thường thường Dipa Ma giản dị nghỉ ngơi trong im lặng. Bà thường bảo: "Mỗi khi tôi có được thời gian riêng một mình, tôi thường quay tâm hướng vào bên trong". Bà chẳng bao giờ dành thời giờ cho một việc mà bà nghĩ chẳng cần thiết cho đời bà. Cũng như trong khi thiền quán, chúng ta chỉ chú tâm mỗi lần đến một việc thôi, Dipa Ma khi làm việc chi thì làm cho xong hoàn toàn việc ấy, chẳng hề nghĩ tới việc kế tiếp. "Tư tưởng về dĩ vãng, và tương lai", bà bảo, "làm hư mất thời giờ của các bạn". Bất cứ làm việc gì, bà hoàn toàn sống trong hiện tại với việc ấy, rất khoan thai, rất tĩnh lặng, và rất bình dị.

Bài Chín: Vun bồi tinh thần chúc phước lành.

"Nếu bạn chúc lành cho người chung quanh bạn, bạn sẽ được thêm sự chú tâm vào mọi phút giây."

Dipa Ma khiến cho đời bà trở thành một sự cầu chúc phước lành liên tục. Bà chúc phước lành đến mọi người. Bà chúc lành họ, từ đỉnh đầu xuống ngón chơn, thổi nhẹ hơi vào họ, tụng đọc kinh bên tai họ, vuốt tóc họ.

Dipa Ma khuyến khích một học viên vừa là phi công hàng không, nên rải tâm từ bi và chúc phước lành đến các hành khách và bạn đồng nghiệp, khi anh nầy đang lái phi cơ. Bà nói điều nầy sẽ làm cho anh phi công trở nên tỉnh táo hơn, đồng thời khiến mọi người cũng được vui sướng.

Sự cầu chúc phước lành của bà, tuy nhiên, chẳng phải chỉ dành riêng cho con người. Trước khi bước lên máy bay, bà cũng chúc phước cho chiếc phi cơ. Ngồi xe hơi cũng là cơ hội để bà chúc lành chẳng những cho chiếc xe mà còn cả cho tài xế và các người đã bơm xăng cho xe.

Thực hành sự chúc phước cả ngày như thế có thể khiến cho sự tầm thường trở thành điều đặc biệt. Ðó là một lối tiếp thọ ân sủng phút nầy sang phút khác. Ðó là một lối nói lời tạ ân, chẳng phải chỉ vào lúc trước bữa ăn, mà còn trọn cả ngày, đối với mọi việc mình làm.

Bài Mười: Một hành trình theo vòng tròn.

"Thiền quán thành toàn nhơn cách con người."

Vị thầy và cũng là bạn của tôi là Matthew Flickstein, có một lần nói với tôi rằng: "Chị Amy nầy, chị biết không, chị chẳng bước tới gần chơn lý hơn chút nào so với lúc chị bắt đầu tập thiền quán, mười tám năm về trước."

Sự sửng sốt hoảng hốt của tôi thật rất hiển nhiên.

"Chị chẳng đến gần chơn lý hơn", ông nói tiếp, "bởi vì chị chính là chơn lý".

Các người Phật tử thường nói một cách ẩn dụ "rời khỏi thế gian" và "trở lại thế gian" (xuất thế và nhập thế), nhưng sự thật thì chẳng lìa thế gian cũng chẳng có quay về với thế gian. Chúng ta chẳng thể lìa hay trở lại với bản thể của chúng ta, với cái chơn lý căn để của thân mạng chúng ta, bởi vì bản thể đó ở ngay tại đây, nhưng chỉ bị che mờ bởi một màn mỏng của sự si mê. Bạn chẳng cần phải khám phá tìm ra nó, đúng lý là bạn phải để nó hiển lộ ra, vẹt khỏi lớp mây mờ đang bao quanh bạn. Nhìn thẳng vào bản thể chơn thật của bạn có nghĩa là nhận định được rõ ràng rằng bạn được liên kết thật chặt chẽ với mọi người chung quanh bạn, với mọi sanh vật đang có mạng sống, rằng bạn, thật vậy, có trách nhiệm trong mọi việc đang xảy ra trên thế gian nầy.

Sự đẹp đẽ của hành trình tâm linh là con đường đạo pháp đó đã đưa chúng ta, một cách chẳng hề đổi thay, đến nơi vòng quanh trở lại điểm khởi hành. Khi Dipa Ma đau khổ về sự hiếm hoi chẳng sanh đẻ của mình, chồng bà đã đề nghi một cách rất đúng đắn là bà nên xem tất cả mọi đứa trẻ như con của chính bà. Nhưng trong những ngày khó khăn buồn thảm đó mà bà phải cam chịu trước khi gặp được các lời giáo huấn đã chuyển hoá cả đời bà, bà đã chìm đắm trong ưu sầu vì những gì mà bà đã thiếu mất và luôn luôn tìm cách "lấp vào lỗ hổng". Tuy nhiên vào giai đoạn cuối cùng của cuộc đời bà, Dipa Ma đã thật sự trở thành bà mẹ của tất cả. Ðể lấp vào "lỗ hổng" đó, quả tim bà đã giản dị mở rộng ra thừa tiếp mọi người.

-ooOoo-

Chương 12: Trước mặt Thầy: vấn đáp

Các câu hỏi và lời giải đáp sau đây được ghi chép lại trong các cuộc phỏng vấn với Dipa Ma tại Ấn độ vào những năm của thập niên 1970 và tại Hội Thiền Minh Sát (Insight Meditation Society) vào những năm của thập niên 1980.

-- Tôi phải tập Thiền Minh Sát (Vipassana) như thế nào?

-- Ngồi thẳng lưng. Nhắm mắt lại và theo dõi sự phồng lên và sự xẹp xuống của bụng, trong khi bạn đang thở. Hãy cảm nhận hơi thở. Khi theo dõi hơi thở vào và hơi thở ra, hãy tự hỏi, "Hơi thở chạm vào chỗ nào?"Phải đặt tâm ý vào chỗ chạm đó mà thôi. Bạn chẳng phải làm gì với hơi thở, mà chỉ cảm thấy nơi hơi thở chạm. Nếu hơi thở nặng nề, cứ để nó nặng nề. Nếu hơi thở ngắn, cứ dể nó ngắn. Nếu nó tế nhị, cứ để nó tế nhị. Chỉ cần cảm nhận nó thôi.

Khi tâm ý bạn đi vẩn vơ, hãy để ý đến việc đó và tự nói với bạn, "Suy nghĩ", rồi trở lại với sự phồng lên và xẹp xuống của hơi thở. Nếu bạn cảm thấy có một cảm giác ở chỗ nào khác, thí dụ như nhức ở chơn, thì liền đưa tâm ý bạn đến chỗ nhức và ghi nhận, "Nhức". Khi cơn nhức bớt dần hoặc hết nhức, thì bạn lại quay lại theo dõi chỗ chạm của hơi thở. Nếu có sự xao động đến, ghi nhận rằng "Xao động".

Nếu bạn nghe một tiếng động, hãy tự nói với bạn, "Nghe, Nghe", rồi cũng trở lại với cảm giác về hơi thở. Nếu nhớ đến việc gì, thì hãy ghi nhận "Nhớ". Bất cứ việc gì bạn thấy, bất cứ sự gì đến trong tâm, chỉ cần biết đến sự việc đó. Nếu bạn thấy có hình ảnh hay ánh sáng, chỉ cần ghi nhận "Thấy" hoặc "Ánh sáng". Chẳng cần giữ chúng lại, hay bắt chúng ở lại. Chỉ cần quan sát chúng mà thôi.

Trong Thiền Minh sát bạn phải quan sát sự phồng lên và xẹp xuống của hơi thở và các hiện tượng khởi lên trong tâm và trên thân. Do đó, có việc dời tâm đi từ các cảm giác đã nhận, cảm giác thích thú, hay đau đớn, đến các ý tưởng khác nữa. Bất cứ có điều gì đang xảy ra, cũng đều được ghi nhận, rồi điều ấy qua đi, và có điều khác lại đến. Theo cách đó, sự tu tập Thiền Minh sát là một phương pháp quan sát. Tất cả sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; tâm ý là căn thứ sáu) sẽ khởi lên. Bạn chỉ cần quan sát khi chúng khởi lên, rồi chúng lại qua đi, thì bạn liền trở về với cảm giác nơi hơi thở. Bất cứ điều gì bạn thấy, bất cứ điều gì khởi lên trong tâm, bạn chỉ cần biết rõ nó, ý thức được nó, mà thôi.

-- Mục đích của Thiền Minh sát là gì?

-- Mục đích của Thiền Minh sát là để diệt trừ Mười Kết sử; các kết sử nầy là những nút thắt gút, hay là chướng ngại trong tâm bạn. Từ từ, từ từ, do sự quán sát mỗi phút giây với sự tỉnh thức, bạn sẽ cởi mở hết các nút thắt buộc đó ra. Mười Kết sử đó là: ngã kiến (ý kiến sai lầm cho rằng có cái "ta" riêng biệt, cái tự ngã), nghi ngờ, giới cấm thủ (tuân theo các nghi lễ ngoại đạo và dị đoan), tham, sân, sắc ái, vô sắc ái, kiêu mạn, trạo cử và vô minh.

Vào mỗi giai đoạn của sự giác ngộ, chầm chậm và từng cái một, các kết sử lần lượt tiêu mất, cho đến quả vị của giai đoạn thứ tư, bậc A la hán, thì tất cả mười kết sử mới tận diệt. Các kết sử có liên hệ đến sự tái sanh, cũng giống như chất dầu làm cháy ngọn đèn. Các kết sử cũng như là chất dầu trong tâm của bạn. Khi dầu cạn lần lần, ánh sáng ở ngọn đèn cũng lu mờ lần lần. Sau cùng khi dầu cạn hết thì ánh sáng cũng tắt mất. Một khi các kết sử được tận diệt, vòng tái sanh luân hồi cũng chấm dứt. Vào thời điểm nầy, bạn có thể hiểu được rằng sự sanh ra và tái sanh đang nằm trong tay của bạn.

-- Tôi phải làm gì khi bị ngủ gục trong lúc ngồi thiền?

-- Ngủ gục chẳng hại gì cả. Các thiền giả cũng ngủ như thế, gọi là "thiền miên"(giấc ngủ thiền). Ðiều đó thường xảy ra. Ðừng lo ngại về điều đó. Khi tôi mới bắt đầu thiền quán, tôi thường khóc luôn, bởi vì tôi muốn nỗ lực theo đúng các lời chỉ dạy một cách thật nhiệt tâm, nhưng tôi chẳng thể làm được, bởi tôi buồn ngủ quá. Tôi cũng chẳng đứng thẳng lên và đi thiền hành cho đàng hoàng, vì tôi buồn ngủ quá. Trước kia, trong năm năm, tôi đã cố gắng để ngủ mà chẳng ngủ được. Và nay, ở đây, tôi đang cố gắng để tập thiền, thì sự buồn ngủ lại cản trở tôi. Tôi đã tận dụng tất cả năng lực của tôi để xua đuổi cơn buồn ngủ, nhưng tôi chẳng thể làm được thế. Rồi một hôm, đùng một cái, tôi đạt đến trạng thái mà sự buồn ngủ biến đi đâu mất; và rồi cơn buồn ngủ cũng chẳng đến với tôi, ngay cả khi tôi ngồi thiền hằng mấy giờ.

-- Có phải nghiệp (karma) giống như sổ kết toán được cất giữ lại hay không? Nếu phải, thì cất nó ở đâu?

-- Mỗi người đều có một bánh xe nghiệp (nghiệp luân). Nghiệp đó nằm ngay trong tay của bạn; chẳng ai khác cất giữ nó cả. Mỗi khi bạn hành động, nghiệp được gom cất lại. Nghiệp trôi theo dòng ý thức. Ngày bạn sanh ra, nghiệp cùng đến với bạn. Những kẻ khác chỉ có thể trỏ đường đi cho bạn, chớ họ chẳng thể sửa đổi nghiệp của chính bạn. Chẳng một ai có thể lấy nghiệp của người khác. Chính bạn, bạn phải làm việc đó. Bởi do nghiệp mà có người tu tập tiến bộ nhanh, có người tiến bộ chậm. Vài kẻ bị đau nhức nhiều, có người thì không.

-- Nếu chẳng có linh hồn, thì ai thấy, nghe, và biết?

-- Trí huệ.

-- Phải làm gì khi năng lực và cố gắng xưống thấp?

-- Ðôi khi năng lực xuống thấp, có lúc nó lại lên cao. Ðôi khi sự cố gắng tụt xuống, có lúc nó lại trồi lên cao. Nhưng bạn chỉ cần ghi nhận trong tâm bạn rằng "năng lực thấp, cố gắng thấp". Nếu bạn ghi nhận nó khi nó đang thấp, tự nó tự nhiên điều chỉnh lại. Biết rõ mức "năng lực thấp", "năng lực cao" cho đến khi nào một năng lực trung bình hiện thấy ra. Ðiều nầy cần được làm một cách êm thắm, từ từ, và dịu dàng. Năng lực và cố gắng được điều chỉnh đúng mức khi ta ghi nhận chúng. Ta chẳng nên trở thành nạn nhơn của các năng lực.

-- Bà làm cách nào để thương mà đồng thời chẳng luyến ái?

-- Một thí dụ thật giản dị là nước. Chẳng luyến ái có nghĩa là bạn trôi trên mặt nước. Bạn chẳng lặn sạu dưới nước. Bạn thả mình trôi theo dòng mà chẳng chìm sâu xuống đáy nước.

-- Có đúng chăng, thiền giả phải ăn chay?

-- Vấn đề ăn chay hay ăn mặn chẳng quan trọng. Ðiều quan trọng là tâm ý bên trong. Ngay cả khi bạn ăn chay với một tâm trạng ô nhiễm vì tham, sân hay si, thì bữa ăn chay của bạn trở thành ăn mặn. Ðó là lời Ðức Phật đã dạy. Nếu tâm ý bạn thoát khỏi tham, sân, thì bữa ăn mặn cũng hoá ra bạn đang ăn chay. Ðối với mỗi hành động -- thân, miệng, ý -- Ðức Phật đặt nặng nơi ý định.

-- Ðôi khi tôi cảm thấy quá chán nản và muốn tự sát.

-- Sự chán nản đến mức suy nhược và ý muốn tự sát là những căn bịnh tâm thần. Ðôi khi nó lại xảy ra cả cho những thiền giả đã tu chứng thật cao nữa. Nên tập phát triển cho có được một viễn ảnh thật thực tiễn. Một mặt, bạn phải biết rõ hậu quả của việc tự sát: đó là một hành động chẳng cứu giúp bạn được gì trong nhiều kiếp sống liên tiếp; và mặt khác, hãy ráng nhớ, mạng sống con người là điều quí báu nhứt. Ðừng phung phí nó. Bạn nên gắng tập Thiền Minh sát và vui tươi lên.

-- Trí năng có quan trọng lắm trong sự tiến bộ thiền quán không?

-- Không. Tôi chẳng có chút trí năng nào cả. Và trước kia, tôi chẳng hề biết đến thiền quán hay là các trạng thái của tâm thức. Tôi chỉ có lòng tin thành khẩn nơi đạo pháp. Tôi cảm thấy chắc có điều gì dành cho tôi ở đấy. Với lòng tin ấy, tôi bắt đầu tu tập.

-- Sự tỉnh thức có ích lợi gì?

-- Ðể tôi kể cho các bạn nghe một thí dụ. Nếu tôi bảo bạn, có một số châu báu được chôn dấu tại một nơi nào đó và tôi dục bạn đi lấy về, bạn sẽ rời nhà lên đường để đi đến đó. Dọc đường, bạn gặp một cuộc đánh lộn, bạn dừng lại xem một lát. Nhưng sau đó, bạn lại tiếp tục lên đường. Rồi bạn lại thấy một đám cưới đi ngang qua, kèn trống vang lên, bạn lại dừng bên đường để ngắm. Lát sau, bạn lại đi tiếp. Có thể bạn thấy một cuộc đua xe trên công lộ, bạn cũng đứng lại xem, một lát sau mới đi tiếp. Nếu bạn chẳng có tỉnh thức, bạn chẳng thể đi tới nơi chốn dấu châu báu mà tôi đã bảo đến lấy. Nhưng khi có sự tỉnh thức ở đấy rồi thì mặc dầu có những sự ngừng nghỉ hay cản trở, bạn chẳng hề lạc mất lối, và tiếp tục đi tới mãi. Sự tỉnh thức giúp bạn đạt tới mục tiêu.

-- Các sự chuyển hoá quan trọng trong đời bà đã xảy ra trong khi tu tập ráo riết hay là ngay trong cuộc sống hằng ngày theo đường lối thiền quán?

-- Các sự chuyển hoá lớn xảy ra trong khi tu tập ráo riết. Rồi sau đấy, tôi vun bồi các sự thay đổi đó ngay trong đời sống hằng ngày. Các sự biến đổi ngày càng thâm sâu hơn, theo phương cách đó.

-- Các ưu phiền và sầu não của bà từ từ mất dạng hay đã nhanh chóng tiêu trừ như là một thành quả của sự giác ngộ?

Lần lần tôi có thể cảm thấy chúng từ từ ra đi mất. Rồi sau đấy với sự thực tập thiền quán nhiều hơn, tôi phát triển được chút ít trí huệ, thì toàn bộ ưu não đều tiêu tán.

-- Ai có thể dạy thiền quán được?

-- Cần có hai điều về việc giảng dạy Giáo pháp. Một là kiến thức và sự sáng trí. Còn điều kia là sự chứng đắc được đạo quả thứ nhứt hay đạo quả thứ nhì trong sự giác ngộ. (Sau đây là lời của Jack Kornfield đã nói rộng ra, dựa theo câu trả lời của Dipa Ma). Các ba la mật (đức tánh toàn thiện) cần có đủ, để xứng làm một vị thầy dạy thiền, rất khác với các ba la mật cần có để tu tập thiền định. Cả hai loại khả năng rất khác nhau về căn bản. Vài người có tiềm năng rất rộng trong việc thiền quán và đời sống tâm linh, trong khi những kẻ khác lại có khả năng rất tế nhị để truyền thông và giảng dạy. Hai hạng người đó đâu phải bó buộc là cùng một hạng như nhau. Tuy nhiên để giảng dạy, điều đáng mong ước là họ có đủ cả hai đức tánh: kinh nghiệm tốt và thâm sâu về đời sống tâm linh và khả năng trao truyền các kinh nghiệm đó cho người khác.

-- Ðiều gì tốt nhứt cần làm khi các dục vọng quá mạnh?

-- Hãy quán tưởng và chiếu soi mạnh và trực tiếp vào các dục vọng. Hãy biết rằng chúng rất mạnh. Hãy cố gắng tìm hiểu chúng cho rõ ràng... Nhờ xuyên qua sự hiểu biết về các điều ham muốn của các giác quan khi các ham muốn đó vừa khởi lên, bạn có thể khắc phục được chúng. Bạn có thể sống trong cõi dục giới mà vẫn là một người Phật tử thuần thành, bởi vì bạn có thể đồng thời "xuất thế gian"được, với ý nghĩa là bạn chẳng để bị lôi kéo hay bị ràng buộc.

-- Sự hiểu biết căn bản của bà về đời sống có thay đổi chăng?

-- Lối tôi nhìn đời đã thay đổi rất nhiều. Trước kia, tôi bám níu vào mọi sự việc; tôi rất chiếm hữu, tôi đòi muốn muôn vật. Nhưng nay, tôi như đang trôi bồng bềnh, chẳng bị vướng bận gì. Tôi đang sống ở đây, nhưng tôi chẳng ham muốn vật gì, tôi chẳng mong chiếm hữu bất cứ vật gì. Tôi đang sống, thế thôi. Thế là đủ rồi.

-- Tôi phải tập tâm từ bi như thế nào?

-- (Các đoạn sau đây là sự kết hợp giữa những lời dạy của Dipa Ma đã được ghi âm, với các hồi tưởng của Michelle Levey về lời Dipa Ma đã dạy. Michelle Levey đã thực tập thiền quán về tâm từ bi trong hơn hai mươi năm. Các bạn có thể chọn, hoặc dùng suốt thời thiền toạ để quán về tâm từ bi, hoặc khởi đầu hay chấm dứt thời khoá với tâm từ bi. Sau cùng, năm giai đoạn, được kể ra sau đây, có thể phối hợp tập chung trong một thời khoá; nhưng khi mới bắt đầu tập, tưởng nên mỗi lần chỉ chiếu soi kỹ vào một giai đoạn mà thôi).

a) Giai đoạn một.

Giai đoạn đầu là phải thương ngay chính mình, là bạn thân với chính mình. Bắt đầu rải tâm từ bi đến cho mình. Bạn có thể dùng các câu nguyện sau đây, hay các tâm ảnh, để soi đường cho bạn trong việc làm phát khởi và hướng dẫn tâm từ bi của bạn:

Nguyện tôi chẳng có kẻ thù.
Nguyện tôi chẳng vướng hiểm nguy.
Nguyện tôi chẳng âu lo
Nguyện thời thời tôi được thân an tâm lạc.

"Kẻ thù" có nghĩa là kẻ thù bên ngoài mà mình cũng làm kẻ thù cho chính mình nữa. Kẻ thù có thể thấy ở cảnh giới các cảm thọ, từ một chút bực bội cho đến sự sân hận mãnh liệt hoặc đối với mình hay đối với kẻ khác. Trong khi thầm niệm các câu trên, hãy nhìn vào trong tâm bạn thấy thật rõ ràng hình ảnh của chính bạn. Nếu chẳng thể dùng tâm nhãn như thế, thì cố nhớ lại bóng dáng bạn khi bạn soi gương. Nếu nhớ lại chẳng được hết, thì bạn cứ nhìn thẳng vào một bức ảnh còn mới của bạn cho đến khi nào bạn có thể thấy rõ bạn bằng mắt tâm.

Lập lại các câu trên theo thứ tự. Nếu tâm đi vẩn vơ và đang quên mất một câu nào, thì nhẩm đọc lại ngay từ câu đầu. Ðem tâm quay về với mỗi câu nhiều lần như thế sẽ khiến cho định lực của bạn càng thâm sâu.

Ðiều quan trọng là bạn phải bỏ rơi nghĩa chữ và cảm tưởng của bạn dính sau các chữ ấy, mà vẫn để trọn lời nguyện trong câu hướng dẫn bạn, cắm sâu bạn vào sự thực tập mà đi tới. Hãy nuôi dưỡng trong tâm trí cảm giác an lạc cùng hình ảnh của bạn và miên mật niệm các câu nguyện trong bao lâu mà thời khoá cho phép.

Khi việc thực tập đã khá sâu, khi bạn cảm thấy bạn thật tình yêu chính bạn, khi bạn có thể lưu giữ vững trong tâm bạn hình ảnh rõ ràng của chính bạn, thời bấy giờ, nếu bạn muốn, hãy chuyển sang giai đoạn thứ hai, về cách rải tâm từ bi đến cho một người bạn lành.

b) Giai đoạn hai.

Dùng các câu nguyện cũ như trước, hướng tâm từ bi đến một người bạn lành hay đến vị thầy đã tỏ ra thân ái với bạn. Cũng như khi bạn đã rải tâm từ bi đến cho chính bạn, hãy nhìn lâu thật rõ hình ảnh của người thân trong tâm bạn và rải tâm từ bi đến cho người ấy:

Nguyện cầu bạn chẳng có kẻ thù.
Nguyện cầu bạn chẳng vướng hiểm nguy.
Nguyện cầu bạn chẳng âu lo.
Nguyện cầu thời thời bạn được thân an tâm lạc.

Khi bạn cảm thấy rằng bạn thương người thân ấy cũng như bạn thương chính bạn vậy, hoặc khi bạn có lưu giữ tâm ảnh của người thân nơi tâm bạn thật lâu và thật rõ cùng với những câu cầu nguyện, thời nếu bạn muốn, bạn có thể chuyển sang giai đoạn thứ ba.

c) Giai đoạn ba.

Nhóm người kế tiếp để rải tâm từ bi được gọi là những người đang đau khổ -- bất cứ ai hoặc nhóm nào đang khổ sở. Trước đây, bạn lưu giữ vững trong tâm hình ảnh của mỗi một người, thì nay bạn hãy mở rộng nhãn quan để chiếu soi đến một nhóm đông người. Bắt đầu nhìn tâm ảnh của một nhóm người đang đau khổ. Rải tâm từ bi đến các người đó như bạn đã rải cho chính bạn và cho người thân:

Nguyện cầu các bạn chẳng có kẻ thù.
Nguyện cầu các bạn chẳng vướng hiểm nguy.
Nguyện cầu các bạn chẳng âu lo.
Nguyện cầu thời thời các bạn được thân an tâm lạc.

Nếu có những hình ảnh của các nhóm khác tự động khởi lên trong tâm bạn, ví dụ như những bịnh nhơn trong nhà thương, hoặc các nạn nhơn chiến tranh, thời cũng tốt vậy, bạn cứ hướng tâm từ bi đến với họ, làm như thế là thiền quán theo một đường lối linh động với một dòng các hình ảnh di động. Hãy tiếp tục niệm những câu nguyện trong khi cố gắng chú tâm càng nhiều đến các cảm giác về từ bi ẩn sau các chữ.

Từ trên căn bản biết thương chính mình, bạn nhận ra rằng sự tự mình thương yêu mình chính là căn bản và chất nhiên liệu để nới rộng tình thương đến người khác. Vừa thương mình, bạn thương luôn người thân như thương chính bạn. Rồi bạn thương đến những người đang đau khổ, như bạn đã thương người thân của bạn, và thương người nầy cũng như bạn đã thương chính bạn. Với sự tập luyện miên mật, tất cả mọi nhóm đều được hoà hợp lại thành một nhóm duy nhứt.

d) Giai đoạn bốn.

Trong giai đoạn thứ tư nầy, tâm từ bi và tâm bình đẳng được hoà chung nhau lại. Việc thực tập là lưu giữ trong tâm một ý nghĩa thật rộng rãi về mọi chúng sanh và rải tâm từ bi một cách đồng đều đến cho họ -- các bằng hữu, các người đau khổ, các người mà bạn dửng dưng, các ngưòi gây khó khăn cho bạn, và tất cả chúng sanh khắp nơi.

Nguyện cầu mọi chúng sanh chẳng có kẻ thù.
Nguyện cầu mọi chúng sanh chẳng vướng hiểm nguy.
Nguyện cầu mọi chúng sanh chẳng âu lo.
Nguyện cầu mọi chúng sanh thời thời được thân an tâm lạc

Muốn được như thế, hãy khiến tâm của bạn trở thành tâm từ bi, bằng cách chú ý và quan tâm nhứt về tình cảm của mình đối với sự từ bi. Các chữ, các câu nguyện, mà bạn dùng đã nhiều lần đến nay, chỉ là những mốc chỉ đường cho bạn hướng về các tình cảm đó. Hãy để tâm trí bạn trở nên từ bi và an trú nơi đấy với sự bình đẳng chẳng cho nghiêng riêng về một hướng nào cả.

c) Giai đoạn năm.

Giai đoạn cao điểm nhứt của sự quán chiếu tâm từ bi là phối hợp tất cả các giai đoạn lại, rồi chiếu rọi trong một lúc đến mỗi giai đoạn riêng biệt, vào suốt thời gian dành cho việc quán chiếu. Thực tập theo đường lối đó, sự quán tưởng trở nên như một buổi hoà tấu của tâm từ bi trong đó bạn khởi lên với chính bạn, rồi mở rộng ra, mở rộng thêm ra, mở rông mãi thêm ra, cho đến khi nào tâm bạn thật sự an trú trong bình đẳng tâm vô lượng và vô biên.

Chương 13: Ngập sâu trong ân sủng

Lời giáo huấn của một vị đại sư có thể mang nhiều hình thức. Một trong những lối giáo hoá mạnh mẽ nhứt và nhiệm mầu nhứt chính là sự thân giáo, phát xuất từ bản thân hiện diện của vị thầy. Như nhiều người đã xác nhận, chính lối sống bình dị, trong sáng và từ hoà của Dipa Ma trên thế gian nầy đã cống hiến một sự khuyến khích có sức mạnh thúc bách ta dấn bước trên con đường đạo pháp.

Ngay cả khi bà đã lìa đời rồi, nhiều người đệ tử vẫn còn tiếp tục thể nghiệm được sự hiện diện của bà. Jack Kornfield có nói, vào những giờ phút khó khăn lớn lao hoặc hứng khởi sâu đậm của ông, lòng ông xúc động vô cùng trước sự tỉnh giác cảm thông về anh linh của bà. Theo vị thiền sư Munindra, nghiệp lành của các bực đã giác ngộ, như Ðức Phật hoặc Dipa Ma, luôn luôn có sẵn đó cho chúng ta thừa tiếp vào công cuộc tu tập, nếu chúng ta biết tìm đến.

Dipa Ma cũng đã hoá hiện đến với những người chưa hề quen biết bà và những bản tường trình vẫn tiếp tục nói về sự hiện diện của bà, hơn cả chục năm sau khi bà mất. Ðối với các đệ tử, được thấy bà trong giấc mộng hay trong tâm ảnh hoặc cảm nhận sự có mặt của bà như tăng thêm năng lực, thường xảy ra trước khi họ đi vào tình trạng định lực thật thâm sâu. Một vị dạy về thiền quán, thường thể nghiệm được sự hiện diện của bà, có nói rằng, "Bạn có thể gọi đó là ân sủng. Dầu đó là gì gì đi chăng nữa, mỗi khi nó xuất hiện, tôi rất cảm tạ mối ân sâu đó."

Dipa Ma đã đến với tôi trong nhiều lối. Một trong những thí dụ khá lý thú đã xảy ra khi tôi tham dự khoá an cư ở miền Tây Nam và đang soạn quyển sách nầy.

Trên tường trước bàn viết của tôi có treo một bức phóng ảnh màu, dài cở một tấc rưỡi ngang một tấc, in hình của Dipa Ma đang toạ thiền. Một hôm, sau khi treo lên một bức ảnh khác của Dipa Ma, mới và đẹp hơn, tôi quẳng tấm phóng ảnh cũ vào sọt rác. Bỗng tôi cảm thấy xốn xang hối hận: "Có lẽ mình chẳng nên quẳng tấm hình đi." Tôi mơ hồ nhớ lại lời răn trong Phật giáo chớ có quẳng các pháp khí đi, vì khiếm lễ như thế sẽ đem lại nghiệp quả xấu. Tôi tư lự một hồi: "Hành động vừa rồi có quay lại ám ảnh ta chăng?" Sau cùng tôi quyết định: "Vô lý! Ðó chỉ là một phóng ảnh. Nó đã nằm trong sọt rác, rồi sẽ được vứt xuống hố. Tôi đã treo thế vào đó một bức ảnh đẹp hơn. Tôi chẳng có khiếm lễ chút nào!" Thảo luận chấm dứt!

Vài tháng sau, vào một xế trưa hè nóng bức, tôi đang phụ giúp để triệt hạ một cái cổng sắp sụp đổ ở ngoài sân. Khi chúng tôi kéo cái ngạch đá rời khỏi bức tường, ở tận trong cùng phiá dưới của khung cửa, tôi nhìn thấy một cái ổ chuột lông đuôi xù (packrat). Mẹ chuột đã sưu tập được cả một cuộc triển lãm các đồ vật đầy màu sắc, nếu ta mà thưởng ngoạn đến, chắc cũng khá thích thú.

Khi tôi bước lại gần hơn, có một cái gì đập vào mắt tôi. Ở giữa ổ chuột, bên cạnh mấy cọng lá xương rồng, tờ giấy thiếc mỏng, vài miếng plastic đỏ, đôi viên phân chuột, và một cây viết bi mực xanh, có bức ảnh của Dipa Ma đang tham thiền còn nằm đó, hoàn toàn nguyên vẹn. Ðang mỉm cười nhìn tôi.

Ðúng như thật sự việc đã xảy ra, đó là bức ảnh mà tôi đã nhìn thấy mấy năm trước kia ở trên tường thư viện, khi tôi đến viếng Hội Thiền Minh sát (Insight Meditation Society) lần đầu tiên. Một sự khởi đầu và một hồi kết cuộc -- tất cả là một.

Bà vẫn còn đang dạy tôi.

Giữa sự khổ đau, vẫn còn hiện hữu của ánh sáng. - Khi tôi đang đau khổ hay khi tôi gặp những thân chủ cũng đang đau đớn thật nhiều, (...) thì Dipa Ma "hiện lên". "Hiện lên" chẳng phải theo nghĩa bà thật sự có mặt tại nơi đây, nhưng còn hơn nữa, với đức độ của sự bà hiện diện giữa nơi khốn khổ triền miên. Bà đã hiện lên trong tâm tư tôi trong những trường hợp như thế.

Khi điều nầy xảy ra, sự quân bình nội tâm của tôi trở nên tốt đẹp hơn, và có sự gia tăng trong niềm từ bi. Bà đã hiện nhiều lần trong khi tôi đang (...) làm việc với một người cũng đang đau đớn dữ dội. Bà nhắc nhở tôi biết rằng, "Trong những giờ phút đen tối nhứt của sự khốn khổ, vẫn còn có sự hiện hữu của ánh sáng". -- Roy Bonney

Sức mạnh thiền tập của tôi vẫn ở bên cạnh bạn. - Tôi cảm thấy thật sâu xa như tôi vẫn còn đang tiếp tục thọ nhận lời bà giảng dạy. Một thí dụ để chứng minh điều đó đã xảy ra sau khi bà vừa mới mất, đầu tháng Chín năm 1989.

Năm ấy, tôi theo khoá tập thiền ba tháng ở Hội Thiền Minh sát (IMS, Insight Meditation Socieyty), và phải chịu đựng một cuộc toạ thiền đặc biệt đau đớn về thể xác, và một lời phát nguyện khởi lên trong tâm tôi: " Tôi quyết ngồi cho qua cái đau nầy, tôi có đủ sức mạnh để nhìn thẳng vào nó." Khi cơn đau trở nên dữ dội quá, tôi bỗng cảm thấy như đang tràn ngập hình bóng của Dipa Ma. Tôi cảm nhận được sự hiện diện của bà và thấy bà cống hiến cho tôi: "Sức mạnh thiền tập của tôi hiện đang có mặt ở đây, với bạn đó." Và rồi đấy, một nguồn năng lực dồi dào dâng trào lên, rồi tôi đã đủ sức mạnh để vượt xuyên qua suốt cơn đau." -- Janne Stark

Khiêm nhẫn. - Vào khoảng thời gian gần lễ thọ giới tỳ kheo ni của tôi, mặc dầu đã nhiều năm trôi qua kể từ ngày bà mất, tôi vẫn cảm thấy như bà đến nói với tôi, bảo rằng, công việc tu tập của tôi là phải học về hạnh khiêm nhẫn. Nhìn ngược lại những tháng năm tôi sống trong tu viện, tôi mới hiểu ra điều đó thật là đúng một cách rất sâu xa.

Chúng tôi trồng hai cây để tưởng niệm đến Dipa Ma. Một cây trồng trong vườn Cittaviveda của nữ tu viện Phật giáo tại Chithurst, Anh quốc. Hoà thượng và các vị tỳ kheo khác có đến dự. Chúng tôi tìm được gần tịnh xá tỳ kheo ni một nơi thích hợp để đào đất trồng xuống. Khi đào lỗ, chúng tôi bắt gặp được một mảnh sành nằm dưới đáy hố, lượm lên thấy có hàng chữ ghi lời cầu nguyện Ðức Chúa. Phải chăng đó là một dấu hiệu hùng hồn chứng tỏ sự siêu thoát của các tôn giáo?

Vài năm sau, việc tưởng niệm đến Dipa Ma lại được nới rộng thêm ra bằng dự án xây cất một cây cầu bắt ngang qua dòng nước chảy trong khuôn viên vườn các tỳ kheo ni. Tôi rất vui thích với ý kiến đó, vì hình ảnh vượt qua dòng sông khiến tâm tôi liên tưởng thật sâu xa đến bà.

Tuy nhiên, trong khi thảo luận chi tiết việc xây cầu, có một điều nào đó xảy ra đã làm cho tôi tức giận. Mặt tôi lúc ấy tái xanh lại và cơn giận thật là mãnh liệt. Sau đó, tôi tìm đến gần bên cây đã trồng độ trước, thấy cành lá trở nên uá xào.

Rồi cây ấy lại chết mất. Ðấy là một thông điệp thật rõ ràng gởi đến cho tôi về hậu quả của sự sân hận. Một vật để tưởng niệm Dipa Ma chẳng thể nào tạo nên được với tâm còn chưa rửa sạch hiềm hận. Về sau, cây cầu cũng được xây lên với tấm bảng đồng vinh danh Dipa Ma.

Chúng tôi cũng có trồng một cây sồi để tưởng niệm Dipa Ma, tại khu Phật động trong vườn cây ăn trái của Tu viện Phật giáo Amaravati ở Hertfordshire, Anh quốc. Cây nầy lớn rất nhanh, cành lá sum sê, tươi thắm.

Mỗi khi tôi cảm thấy lòng mình bực tức hay bị thách thức, tôi tìm đến ngồi dưới bóng cây đó và đọc chú, niệm kinh hướng về Dipa Ma. Ðôi khi tôi lại đặt một bệ thờ trên cành cây và bước đi thiền hành. Khi làm như thế, sau một lúc, tôi thấy toàn thân tôi thư giản hoà vào niềm an lạc từ bi và thông cảm của bà, và mặc dầu hoàn cảnh bên ngoài còn chưa được cải thiện, nhưng vấn đề khó khăn chẳng còn quá cấp bách nữa. -- Ajahn Thanasanti

Luôn luôn có mặt. - Bà như ánh ngọn nến của Chánh pháp luôn bùng cháy rạng rỡ trong tâm tôi. Bà luôn luôn hiện diện nơi tôi.

Khi bà còn sanh tiền và ngay cả bà đã khuất núi, sự có mặt của bà chẳng hề rời xa tôi. Lúc tôi tham thiền, món quà quí báu nhứt mà tôi tìm thấy chính là cảm nhận bà ngay trong nội tâm tôi. Tôi lắng nghe bà nói: "Bạn sẽ tìm thấy mọi lời giải đáp ngay từ bên trong bạn. Hãy tiếp tục lắng nghe." -- Michelle Levey

Sự hướng dẫn của bà chẳng hề phai nhạt. - Tôi đi cùng bà ra phi trường, khi bà rời Hội Thiền Minh sát (IMS, Insight Meditation Society) vào năm 1980. Tôi đã ở bên cạnh bà thời gian rất lâu, và tôi hiện đang cảm thấy một nỗi ưu phiền rất sâu đậm. Tôi khóc sướt mướt và tim tôi nặng trĩu. Nỗi đau đớn vô cùng sâu xa cũng tựa như lúc mẹ tôi mất đi khi tôi lên ba tuổi rưỡi. Dipa Ma quay lại nhìn thẳng vào mắt tôi và nói:

-- Ðừng quá lo lắng. Tôi sẽ luôn luôn ở cạnh bạn.

Bà đặt hai bàn tay bà lên ngay trên tim tôi và ngay phút ấy, sự đau đớn, nỗi ưu phiền, mọi thứ đều tan rã hết, và tôi cảm như đang được ngập tràn ánh sáng. Kinh nghiệm nầy tôi giữ mãi cho riêng tôi trong nhiều năm, nhiều nhiều năm mà chưa chia xẻ cùng một ai, bởi vì nó thật sâu xa, thật khó mà diễn tả lại được với kẻ khác.

Tôi vẫn có thái độ ngờ vực trong một thời gian thật lâu về câu bà nói, "Tôi sẽ luôn luôn ở cạnh bạn", nhưng sự hiện diện của bà đã củng cố và lưu lại rất lâu với tôi. Kể từ khi tôi bắt đầu toạ thiền đến nay đã mười tám năm, sự hướng dẫn của Dipa Ma chẳng bao giờ phai mờ cả.

Các người khác cũng có thể cảm nhận những giây phút như thế nữa. Năm nay, tôi có đến dự một buổi lễ thanh tịnh hoá ở Lakota của sắc dân da đỏ Sioux miền Tây, tiểu bang Iowa, Hoa kỳ. Tôi rất kinh hoàng trước một nghi thức mà bà chủ lễ, một vị nữ trrưởng lão Sioux, thực hành theo truyền thống của tổ tiên bà để lại. Tôi cảm thấy có cái chết, cái tự ngã đã chết mất. Tôi chẳng biết là mình còn có thể theo dõi đến hết buổi lễ chăng. Tôi muốn rời khỏi cuộc lễ, bởi vì tôi thầm nghĩ quá căng thẳng cho tôi chịu đựng nổi đến hết. Nước mắt chảy ràn rụa, tôi gục đầu xuống đất, đôi má dính đầy cát, mắt nhắm kín lại và tưởng niệm đến Dipa Ma.

Ngay trong giây phút đó, tôi chìm ngập trong ánh sáng và cả nỗi lo sợ vụt biến mất. Một niềm an lạc sâu xa thấm nhuần vào thân tâm tôi, từ lúc tôi khởi lên trong tâm hình ảnh của Dipa Ma. Vào lúc ấy, vị nữ trưởng lão buổi lễ ỏ Lakota trân trân nhìn tôi và nói: "Chị đang ngập tràn ánh sáng."

Trực giác tôi bảo tôi rằng Dipa Ma chẳng hề hiện trở lại trong hình hài nầy. Bà hiện đang vui thích giảng pháp tại một cảnh giới nào đó. Ðôi khi, mắt tâm tôi lại thấy rõ hình ảnh thật linh hoạt của bà nơi đó. Có ánh sáng thật chói lọi. Sự hiện diện của bà được ta cảm thấy như đang tuôn tràn trong ánh sáng.

Bà vẫn còn tiếp tục hướng dẫn chúng ta trên cảnh giới của quả đất nầy mãi cho đến bao lâu mà chúng ta còn cần đến bà. Bà là một trong những vị thiên thần theo bảo hộ chúng ta. Bà luôn luôn trông chừng chúng ta. -- Sharon Kreider

Nếu tôi làm được, thì bạn cũng làm được. - Trong một khoá an cư ba tháng, tôi gặp phải thật nhiều khó khăn. Trọn ngày, tôi cứ lo tranh đấu, cứ nỗ lực tranh đấu rất lâu.

Tại một buổi thiền quán, tôi lại thấy tôi đang ước mơ, phải chi tôi gặp gỡ được Dipa Ma, và tự hỏi thầm, "Bây giờ còn có cách nào liên lạc được với bà chăng?"

Bỗng nhiên, tôi vụt cảm thấy được sự hiện diện của bà và bà đang tiếp xúc với tôi, nhiệt liệt khuyến khích tôi bằng những lời nói, "Nếu tôi làm được điều đó, bạn cũng có thể làm được chớ."

Sau kinh nghiệm đó, tôi đã đi sâu vào một trạng thái thâm định kéo dài suốt cả hai tuần lễ. -- Ẩn danh

Thương điều khó thương. - Tôi chưa hề được nghe nói đến Dipa Ma, cho đến khi môt người bạn thân kể cho tôi nghe bà là một vị thiền sư vĩ đại và làm cách nào để tìm biết thêm về bà.

Mấy hôm sau, tôi đang ngồi một mình trong phòng, đọc bản tường thuật về đời bà. Khi tôi đọc tới trang ba, tôi bắt đầu cảm thấy một sự an lạc khó tả. Mọi sợ hãi, âu lo đã hoàn toàn lìa khỏi nơi tôi và tôi cảm thấy một sự thanh thoát sâu rộng đối với chính mình và đối với tất cả sự việc trong đời mình -- một sự an lạc trọn vẹn và một sự cởi mở hoàn toàn. Từ trước đến giờ, tôi chưa từng thể nghiệm được như thế. Ngay trong lúc việc đó xảy ra, thì tôi lại có cảm giác như có một sự hiện diện thể chất nào đang đứng trước mặt và hơi chếch về bên tay mặt: cái cảm giác biết mơ hồ có ai đang đứng gần mình, kéo dài lâu chừng năm phút.

Trong hai ngày sau đó, tôi cảm thấy như mình trôi bỗng lơ lửng, và các việc trước kia gây cho tôi âu lo và ưu phiền bây giờ đã mất đi tầm quam trọng của chúng. Ðó, cũng như tôi đã bước xuyên qua một cánh của đi vào một cảnh giới khác lạ. Tôi thường được nghe các vị thầy của tôi nói về "trái tim rộng mở" nhưng tôi còn chưa hiểu thực sự đó là gì, mãi cho đến bây giờ. Tôi bắt đầu thấy rõ trái tim chỉ cởi mở ra khi chẳng còn sự lo sợ trong đó. Thật là một kinh nghiệm phi thường và nó đã làm cho tôi phải khêu cháy sáng lại ý nghĩa của sự nhiệm mầu.

Kể từ ngày hôm đó, một câu nói cứ vờn qua vờn lại mãi trong tâm trí tôi, và tôi nghĩ nó phát xuất từ cửa miệng của Dipa Ma: "Hãy thương những gì khó thương." -- Pamela Kirby

Người ấy là ai? - Khi tôi tham dự khoá an cư từ bi tại Hội Thiền Minh sát (Insight Meditetion Society), có một đêm Joseph Goldstein đã thuyết giảng một thời pháp tuyệt vời về tâm từ bi, trong đó ông đã kể lại những mẩu chuyện về vị thầy của ông là Dipa Ma. Sau thời pháp, tôi rời thiền đường và cảm thấy như bị một nguồn năng lực cực mạnh lôi tôi đi. Tưởng chừng như tấm thân tôi là một cái viên qui (com ba, compass) đang được di chuyển hướng về một vật nào đó. Rõ ràng đó là sức mạnh từ bên ngoài tới, chớ chẳng phải do từ bên trong tôi, hoặc do tình cảm của tôi thúc đẩy.

Sau phút do dự ban đầu, tôi quyết định đi khám phá ra năng lực đó -- nó từ đâu tới, nó sẽ đun đẩy đến đâu. Quanh quẩn tìm kiếm một hồi, tôi nhận thấy ra rằng tôi đang bị sức đó lôi kéo đi lên lầu và xuyên qua hành lang đi tới căn phòng số M101. Khi vừa cầm đến tay nắm ổ khoá ở cửa phòng, tôi biết ngay là bất cứ cái chi phía sau cánh cửa nầy, đó chính là nguồn gốc của năng lực ấy.

Khi bước vào trong phòng, tôi thấy sức lôi kéo trở nên mãnh liệt, chẳng thể kháng cự lại được. Thân tôi rúng động và tôi phải ngồi bệt xuống trong góc phòng. Thế rồi, theo hướng mà năng lực đã phát ra, tôi để ý đến một bức ảnh của một người mà tôi độ chừng là đàn ông, vận y phục trắng, đang ngồi toạ thiền. Rồi thì, tựa như cơn gió lốc quay cuồng, sức mạnh ấy quấn lấy tôi, đưa đến trước bức ảnh. Tôi bước tới và cầm lấy bức ảnh, và rõ ràng là sức lôi kéo thay đổi mỗi khi tôi đưa bức ảnh lại gần hay đẩy ra xa, hoặc lộn ngược trên dưới.

Tôi ngạc nhiên hỏi thầm, "Người nầy là ai vậy?" Rồi tôi lại nghĩ, "Chắc tôi sẽ bỏ rơi cả gia đình, cuốn gói đi theo vị thầy nầy. Thật là mãnh liệt quá chẳng thể lờ bỏ qua đi."

Sau đó, tôi ngồi lại trong phòng một thời gian và thiền quán với bức ảnh, thân tâm chìm đắm trong cảm giác mãnh liệt ấy. Kinh nghiệm nầy khiến khởi sanh trong tâm tôi ý niệm về tâm từ bi, an lạc và định tĩnh, kéo dài đến mấy ngày, và cho đến nay nó vẫn còn ảnh hưởng đến tôi ở một giai tầng thâm sâu hơn.

Sau nầy, tôi được một nhơn viên trong Hội cho biết, bức ảnh đó chẳng phải là hình của một người đàn ông, mà chính là của Dipa Ma. -- David Grant

Khởi niệm triệu thỉnh sự hiện diện của Dipa Ma. - Vài học viên của Dipa Ma đã cống hiến các ý kiến về cách triệu thỉnh sức hiện diện của Dipa Ma:

* Tôi cầu nguyện bà vào mọi thời. Dưới nhiều hình thức, bà là một phần của chính tôi. Sự hiện diện của bà chẳng bao giờ chẳng có đó. Một điều còn thiếu sót trong Thiền Minh sát (Vipassana) là toàn thể phương diện sùng mộ, nên tôi cố đem nó trở vào lại trong việc tu tập hằng ngày của tôi.

Tôi bắt đầu mỗi buổi sáng bằng việc khởi lên trong tâm niệm chư Phật, chư Bồ tát, chư Tổ sư, tất cả các bực đại giác. Tôi cảm được sự hiện diện của quí Ngài, cầu nguyện cùng quí Ngài, thỉnh cầu quí Ngài dìu dắt tôi và nêu gương sáng cho tôi. Rồi thì suốt trọn cả ngày, tôi rước các Ngài vào ngự trong tâm tôi. Dipa Ma là một trong các vị ấy. -- Jack Engler

* Người Tây Tạng đôi khi bảo rằng, năng lực đạo hạnh của Ngài Milerapa (một vị Tổ sư Phật giáo Tây Tạng) vẫn còn lưu lại nơi đây. Tôi cảm nghĩ rằng lòng sùng mộ đạo pháp của Dipa Ma, sự hăng say của bà, chí quyết tâm của bà, những gì bà đã khắc phục, những gì bà đã vượt qua khỏi -- tất cả đại hùng lực ấy vẫn còn sẵn sàng đấy để được thừa dụng. Bằng vào sự tưởng niệm đến bà, bằng vào sự quán chiếu đến bà, đại hùng lực ấy còn đó để được san sẻ cho ta. Chúng ta có thể hướng tâm ngưỡng vọng đến sự toàn giác của bà.

Mỗi khi các nỗi khó khăn chợt đến, tôi cố gắng tưởng tượng, "Dipa Ma, thầy ở đâu rồi?", hoặc cố ứng cảm, sâu vào nội tạng, cái ý chí sắt đá của bà vẫn còn đang thấm nhuần trong tâm tôi. Khi tôi tưởng niệm đến hình ảnh hoặc cảm quan của bà, tôi liền ngưng được tức khắc sự chìm đắm chới với của lòng tôi trong các vọng tưởng mà trí tôi đang khơi lên bằng các mẩu chuyện tâm sự của nó. Tôi nhớ lại được rằng có thể vượt qua khỏi các vọng tưởng đó. -- Kate Wheeler

* Trải bao năm qua, tôi đã gặp gỡ khá nhiều vị thầy dạy thiền. Thường thường ở đầu buổi toạ thiền, tâm tôi khởi dựng lên để quy y hình bóng một cây bồ đề có Ðức Phật cùng các vị thầy tổ. Bằng mắr tâm, tôi quán thấy từng vị một và cảm nhận được các đức tánh độc đáo đầy năng lực của mỗi vị. Thật là tuyệt diệu khi cảm thông được với các bực đó. Khi tôi quán thấy Dipa Ma, tôi cảm nhận được nơi bà sự hoà hợp giữa tánh không với tâm từ. Hình ảnh bà mang đến một niềm sâu kín phi thường nơi tâm tư. -- Joseph Goldstein

* Việc tập Thiền của tôi (tác giả Amy Schmidt) với Dipa Ma là đặt trọn tâm tôi dưới sư che chở săn sóc của bà.

Có một lần tôi được nghe trong cuốn băng ghi âm bài giảng pháp của bà cho một nhóm học viên ở nhà bà bên Ấn độ, lời nói dịu dàng đầy tình thương của bà, hướng về một học viên tới trễ, còn chưa tìm được chỗ ngồi trong căn phòng chật hẹp của bà, "Xin mời vào. Nếu hết chỗ rồi, thì cứ lại ngồi trên đùi tôi đây... Cháu đây, cũng như là con của tôi vậy." Mỗi khi tôi thấy buồn tủi, tôi tưởng tượng như nghe tiếng bà gọi tôi: "Lại đây con, lại ngồi trên đùi mẹ đây con!" Trong tâm tôi, tôi thấy tôi chạy ngay lại, gối đầu lên đùi bà, rồi bà dịu dàng, từ từ vuốt tóc tôi, trong khi tôi đang nức nở.

Xuyên qua sự quá vãng của Dipa Ma, cũng như của mỗi vị đại sư nào khác, chúng ta học hỏi làm cách nào để những lời di huấn của người trở thành gia tài cho chúng ta thọ hưởng. Bà là ngọn đuốc sáng trưng mà chúng ta hướng về, để có thể tự cứu lấy mình. Như Jack Kornfield có nói, "Ðiểm quan trọng chẳng phải là "rập khuôn" giống theo Dipa Ma hay một vị đại thiền sư hoặc vị thánh nào khác mà bạn đã được đọc qua. Ðiểm quan trọng còn hơn thế, thật khó nhiều hơn thế nữa: hãy sống với chơn ngã của bạn, và khám phá ra rằng tất cả những gì bạn đang đi tìm đó đã nằm sẵn, tại đây và hiện giờ, ngay trong tâm bạn."

* * *

Nơi mà các câu chuyện nầy chấm dứt, nguyện cầu câu chuyện của chính bạn bắt đầu tại đó, và nguyện cầu các lời chúc lành của Dipa Ma sẽ hướng dẫn bạn trên con đường về quê nhà:

Tất cả những gì tôi đã đạt được, sức mạnh, từ bi, tôi trao tặng bạn, để bạn có đủ lòng tin, để bạn được an lạc.

Ngưỡng vọng hồng ân của Ðức Phật, Chánh pháp và Tăng già,
Nguyện cầu tất cả đều an lành cho bạn,
Nguyện cầu bạn luôn luôn được an lạc,
Nguyện cầu bạn tránh khỏi mọi hiểm nguy,
Và nguyện cầu bạn tiến bộ trong thiền quán.


Những người đã cộng tác

* Dipa Barua là con gái của Dipa Ma. Bà giúp việc trong Chánh Phủ Trung Ương ở Kolkata (Calcutta) và thường tham gia công tác trong các tổ chức xã hội và tôn giáo.

* Jyotishmoyee Barua là nội trợ ở Kolka và có năm con.

* Pritimoyee Barua là nội trợ ở Kolkata, và có hai con trai.

* Rishi Barua là cháu ngoại trai của Dipa Ma. Ông có bằng bằng Cử nhơn, trường cao đẳng St Xavier ở Kolkata và đang theo ban Cao học về Thương mại ở viện đại học Kolkata.

* Sudipti Barua được Dipa Ma hướng dẫn làm phụ giáo tại các khoá thiền ở Bồ đề đạo tràng (Bodh Gaya) và Kolkata. Bà có sáu con, nội trợ trong gia đình và chủ cửa tiệm bánh mì ở Kolkata.

* Roy Booney là nhiếp ảnh gia,(...) kiêm luật sư thuộc vùng Vịnh San Francisco. Ông gặp Dipa Ma vào năm 1974.

* Sylvia Boorstein là một trong các sáng lập viên của Thạch Linh Thiền viện (Spirit Rock Meditation Center) và là tác giả quyển sách Dễ Hơn Bạn Tưởng: Con Ðường ÐiÐến An Lạc của Phật Giáo(It"s Easier Than You Thinhk: The Buddhist Way to Happiness)và các quyển sách khác về sự thực tập đạo pháp.

* Daniel Boutemy tu tập theo phái Thiền thuộc Phật Giáo Nguyên thủy (Theravada) trong hai mươi bảy năm.(...) Ông tu theo với một số khá nhiều thiền sư ở Tây phương cũng như ở Ðông phương, cả về Thiền Minh sát (Vipassana) và Thiền na (Jhana).

* Robert Bussewitz, pháp danh Buzz Ananda, theo học tập Thiền Minh sát từ năm 1978 và dự nhiều cuộc hành hương viếng thăm các thánh tích ở Á châu, kể cả Tây tạng. Hiện cư trú ở Jamaica Plain, tiểu bang Massachusetts, Hoa kỳ.

* Sukomal Chowdhury, giám đốc hồi hưu và giáo sư tại trường Cao đẳng Phạn ngữ ở Kolkata, giữ nhiều chức vụ quan trọng trong các tổ chức xã hội và tôn giáo. Giúp vào quyển sách nầy, ông đã dịch từ tiếng Bengali sang Anh- ngữ một tác phẩm nói về đời của Dipa Ma.

* Dipak Chowdhury là một nhân viên ngân hàng ở Kolkata, có hai con. Ông tham gia vào nhiều tổ chức xã hội và tôn giáo điạ phương, hoạt động hăng say trong công cuộc cứu giúp người nghèo.

* Howard Cohn tập luyện về thiền quán hơn hai mươi lăm năm. Ông là một nhơn viên giảng huấn đầu tiên của Thạch Linh Thiền viện (Spirit Rock Center), đã hướng dẫn nhiều khoá an cư khắp nơi trên thế giới, từ năm 1985. Giảng pháp của ông bao quát nhiều truyền thống từ Phật giáo Nguyên thủy (Theravada), Zen, Dzogchen, và Advaita Vedanta.

* Matthew Daniell là một thiền giả về Thiền Minh sát đã lâu năm. Hiện ông dạy thiền quán Phật giáo và du gìa tại viện Ðại học Tufts.

* Jack Engler là một nhà tâm lý học giảng dạy và giám sát khoa tâm lý trị liệu tại Nha Phân tâm học của Bịnh viện Cambridge và của Trường Y khoa Harvard. Ông là nhân viên trong Chủ tịch đoàn của Trung Tâm Phật học Barre, ông từng theo học với thiền sư Munindra, Hoà thượng Mahasi và Thomas Merton. Hiện sống với vợ và con gái ở tiểu bang Massachusetts, Hoa kỳ.

* Lesley Fowler là một học giả nhiều năm về Thiền Minh sát và là tác giả nhiều tập thơ và sách giả tưởng. Bà sống ở Úc đại lợi.

* Andrew Getz đã tu tập thiền quán từ năm mười ba tuổi kể cả một thời gian xuất gia trong một tự viện ở Á châu. Ông quan tâm đặc biệt về việc giảng dạy Trí huệ Bát nhã cho các thanh thiếu niên "bụi đời" trong một tổ chức mà ông cộng tác để thành lập, Hội Chơn Trời Mới Cho Thanh Thiếu Niên (Youth Horizons).

* Joseph Goldstein là một trong các sáng lập viên và giảng viên của Hội Thiền Minh Sát (Insight Meditation Society). Ông thường giảng pháp về thiền Minh sát tại các khoá an cư khắp nơi từ năm 1974. Tác giả nhiều sách, như quyển Pháp Nhứt Thừa (One Dharma) và quyển Thể nghiệm về Thiền Minh sát (The Experience of Insight), ông cộng tác thành lập Tùng lâm Forest Refuge, một tịnh xá để ẩn cư tu tập dài hạn.

* David Grant là giáo sư Trung học ở Portland, tiểu bang Maine, Hoa kỳ, nơi Ông đang sống cùng vợ và con gái.

* Asha Greerlà một nữ nghệ sĩ, y tá, giáo sĩ cao cấp của truyền thống Sufi (một phái mật tông khổ hạnh của Hồi giáo). Bà là một trong các sáng lập viên của Cơ Sở Lạt Ma (Lama Foundation) ở tiểu bang New Mexico, Hoa kỳ và của Phong trào Cứu tế ở Charlottesville, tiểu bang Virginia. Bà sống ở Batesville, tiểu bang Virginia, Hoa kỳ.

* Pamela Kirby là một nhà xuất bản độc lập ở tiểu bang South Carolina, Bà sống ở Woodacre, tiểu bang California, Hoa kỳ.

* Sayadaw (Hoà thượng) Khippapanno (Kim Triệu) là một tu sĩ Việt Nam đã thọ giới tỳ kheo từ hơn năm mươi hai năm. Hiện Ngài đang trụ trì tại Thích ca Thiền viện gần Los Angeles và Kỳ viên Thiền viện (Jetavana Vihara) ở thủ đô Washington. Ngài dạy Thiền Minh sát từ năm 1982.

* Eric Kolvig hướng dẫn các khoá an cư thiền tập và giảng pháp khắp nơi ở Hoa kỳ. Ông hiện sống ở tiểu bang New Mexico.

* Jack Kornfield có xuất gia làm tỳ kheo ở Á châu. Ông là sáng lập viên của Hội Thiền Minh sát (Insight Meditation Society) và của Thạch Linh Thiền Viện (Spirit Rock Meditation Center). Ông giảng dạy thiền quán khắp nơi từ năm 1974. Ông trước tác nhiều sách về Phật pháp, như quyển A Path with Heart (Ðạo với Tâm) và quyển After the Ecstasy, the Laundry (Sau cơn xuất thần, là sự giặt gỵa).

* Sharon Kreider, vợ và mẹ của hai người con, bắt đầu thực tập thiền Minh sát ở Ấn độ từ năm 1977.Trị liệu viên có cấp bằng hoạt động với lứa tuổi thanh thiếu niên và gia đình họ, bà còn giảng dạy về khoa tâm lý và cách điều quản áp lực (stress management) tại trường Cao đẳng Cộng đồng Front Range ở Fort Collins, tiểu bang Colorado.

* Carol Constantian Lazell bắt đầu thực tập thiền Minh sát ở Hội Thiền Minh sát từ năm 1978 và ở trong ban nhơn viên từ năm 1981 đến 1983. Mẹ của một bé gái mười một tuổi, bà sống ở San Francisco và làm việc trong thư viện một trường tiểu học.

* Michelle và Joel Levey là tác giả của nhiều quyển sách, như Sống Quân bình (Living in Balance), Thiền quán Giản dị và Thư giản (Simple Meditation and Relaxation), Trí Huệ và Công tác (Wisdom at Work), và các sách khác (xin xem thêm www.wisdomwork.com) Hai người đã thực tập với nhiều vị thiền sư theo truyền thống khác nhau, và cả hai đều rộng giảng Phật pháp, đưa các nguyên lý đạo pháp vào dòng chánh lưu (dịch gượng đoạn: taking principles of the dharma into the mainstream) xuyên qua công tác của họ với cấp lãnh đạo và tổ chức hội đoàn văn hoá.

* Michael Liebenson Grady là thiền sư hướng dẫn tại Trung tâm Thiền Minh sát Cambridge.Ông tập thiền từ 1973.

* Ann Lowe là nghệ sĩ vẽ kiểu cho bìa bao sách. Bà sống ở San Lorenzo, tiểu bang New Mexico, cùng với chồng và hai con chó.

* Jacqueline Mandelllà một thiền sư Phật giáo, mẹ của hai người con gái sanh đôi, và Chủ tịch của Hội Chỉ đạo từ Tâm thanh tịnh (Leadership From a Pure Heart).Michele McDonald Smith thực tập thiền Minh sát kể từ năm 1973 và giảng dạy khắp nơi kể từ năm 1982. Bà rất quan tâm đến việc bảo tồn giáo lý cổ điển và tìm phương cách trình bày lại dưới hình thức mà đại chúng có thể hiểu được dễ dàng.

* Maria Monroe bắt đầu thực tập Thiền Minh sát với thiền sư Munindra tại Bồ đề đạo tràng (Bodh Gaya) từ năm 1968 và thăm viếng Dipa Ma vào năm 1979. Bà dạy Thiền Minh sát trong khoảng thời gian 1979 1984. Bà hiện sống ở vùng Portland, tiểu bang Oregon, Hoa kỳ.

* Anagarika Munindra là vị thiền sư có danh tiếng quốc tế. Thọ giới tỳ kheo với Hoà thượng Mahasi, ông hiện trú tại Hàn lâm viện Quốc tế Thiền Minh sát (S.N. Goenka"s Vipassana International Academy) ở Igatburi, Ấn độ.

* Sandip Mutsuddi là một công chức của Chánh phủ tiểu bang ở Ấn độ. Ông là cha trong gia đình và sống ở Kolkata, Ấn độ.

* Daw Than Myint là cháu gọi Dipa Ma bằng dì. Bà hiện là giáo sư Cao đẳng ở Myanmar (Miến điện)

* Susan O"Brien sang Ấn độ năm 1979 cùng với Joseph, Sharon và các người khác, khi họ viếng Dipa Ma ở Bồ đề đạo tràng (Bodh Gaya) và tại nhà bà ở Calcutta. Bà Susan bắt đầu giảng thiền quán từ năm 1996 và là phối hợp viên của chương trình học khoá hàm thụ tại Hội thiền Minh sát (Insight Meditation Society).

* Ðại đức Rastrapala Mahathera là chủ tịch của Trung Tâm Quốc tế Thiền Minh sát tại Bồ đề đạo tràng (Bodh Gaya). Nơi đây, ông đã lấy tên của Dipa Ma để đặt tên cho đại giảng đường. Ông là một văn sĩ và giáo sư dạy thiền Minh sát.

* Bob Ray và vợ là Dixie, cùng là sáng lập viên của Trung tâm Tây Nam Ðời Sống Tâm Linh (Southwest Center For Spiritual Living). Bob hướng dẫn một nhóm ngồi Thiền hàng tuần tại Las Vegas, tiểu bang New Mexico, Hoa kỳ.

* Sharda Rogell thực tập thiền theo Phật giáo Nguyên thủy (Theravada) từ năm 1979 và giảng dạy khắp nơi từ năm 1985. Chịu ảnh hưởng của các phái Advaita và Dzogchen, bà nhấn mạnh đến sự thức tỉnh tâm thức.

* Janice Rubin là nhiếp ảnh viên chuyên nghiệp, trụ sở ở Houston. Nhiều tác phẩm được xuất bản và tham dự các cuộc triển lãm quốc tế từ năm 1976, như cuộc triển lãm năm 2001 của bà và quyển sách Dự án Mikvah (The Mikvah Project) nghiên cứu về nghi thức cổ điển và bí ẩn của (...)phụ nữ Do thái.

* Sharon Salzberg là một trong các sáng lập viên của Hội Thiền Minh sát (Insigt Meditation Society) và một trong các giảng viên hướng dẫn. Bà thực tập thiền từ năm 1970 và giảng dạy khắp nơi từ năm 1974. Bà sáng tác nhiều quyển sách như: Niềm tin: Tin cậy vào Kinh nghiệm Sâu xa nhứt của Bạn (Faith: Trust Your Own Deepest Experience), Từ bi: Nghệ thuật cách mạng của An lạc (Lovingkindness:The Revolutionary Art of Happiness).

* Katrina Schneider đã thực tập ráo riết trong một tu viện giữa rừng sâu ở Miến điện, dưới sự hướng dẫn của Hoà thượng Taungpulu. Bà hiện sống tại Mỹ và áp dụng thiền quán vào công tác cứu giúp bịnh nhơn và dân chúng đau khổ vì bịnh trầm kha.

* Steven Schwartz thực tập thiền Minh sát hơn ba mươi năm và là một trong các sáng lập viên của Hội Tiền Minh sát (Insight Meditation Society). Ông là học viên của Dipa Ma suốt trong thời kỳ nầy và đứng ra bảo trợ chuyến du hành sang Mỹ quốc đầu tiên của bà.

* Steven Smith là một trong các sáng lập viên của Thiền Minh sát Hạ uy di (Vipassana Hawaii) và là giáo sư hướng dẫn tại Hội Thiền Minh sát (Insight Meditation Society). Ông lãnh đạo nhiều khoá an cư khắp nơi.

* Janne Stark vừa là mẹ, săn sóc gia đình, vừa là điều dưỡng trẻ con đi lẫm đẫm, vừa là quản lý viên các Phiên chợ Nông trại (Farmers" Market). Bà lãnh đạo một nhóm hành Thiền ở Portland, tiểu bang Oregon, Mỹ quốc.

* Ajahn Thanasanti được biết đến thiền quán Phật giáo năm 1979 khi tham dự một lớp do Jack Engler giảng pháp. Mười năm sau, bà đến Tu viện Amaravati bên Anh quốc và thọ giới Sa di ni. Năm 1991, bà thọ giới tỳ kheo ni do bổn sư của bà là Ajahn Sumedho truyền thọ. Bà hiện sống ở Úc đại lợi.

* Cha Theophane là tu sĩ thuộc dòng Trappist (tu khổ hạnh cấm khẩu) tại Tu viện Snowmass, ở tiểu bang Colorado. Cha là tác giả quyển Truyện về một Tu viện Thần bí (Tales of a Magic Monastery).

* Kate ("Lila") Wheeler dự khoá an cư Phật giáo lần đầu vào năm 1977. Bà có viết một cuốn đoản thiên tiểu thuyết nhan đề là "Khi Núi Biết Ði" (When Mountains Walked)và một Tập Truyện Ngắn, nhan đề "Chẳng Phải Từ Nơi Tôi Ðã Khởi Hành" (Not Where I Started From). Bà cũng viết nhiều bài đăng trong các báo New York Times và tạp chí khác, như "Tam Luân: Tạp chí Phật học" (Tricycle: The Buddhist Review). Bà hiện sống ở tiểu bang Massachusetts, Mỹ quốc.

Vài nét về nữ tác giả

Amy Schmidt là giảng sư thường trú của Hội Thiền Minh sát (Insight Meditation Society) ở Barre, tiểu bang Massachusetts, Hoa kỳ và là đồng sáng lập viên của tu viện Tăng Gìa Tây Nam (Southwest Sangha), một tịnh xá ẩn cư ở miền Nam tiểu bang New Mexico, Mỹ quốc. Là một cán bộ hợp lệ của ngành y tế xã hội, Amy Schmidt là đồng tác giả của quyển khảo luận "Undrestanding Alzheimer"s: A Guide for Families, Friends, and Health Care Providers " (Hiểu biết về bịnh lão nhược: Cẩm nang cho gia đình, bằng hữu và các nhà điều dưỡng y tế), ấn phẩm của Ðại học Washingtom, năm 1993. Các hình vẽ hí hoạ của bà được tìm thấy trong Budddha Laughing, (Ðức Phật Cười), Bell Tower, 1999.

Các nhà biên tập:

* Don Morreale là biên tập viên của tạp chí The Complete Guide to Buddhist America (Cẩm nang đầy đủ cho Phật tử Mỹ châu). Là một học giả lâu năm về Phật pháp, và một văn sĩ độc lập, ông hiện sống ở Denver, tiểu bang Colorado, Mỹ quốc.

* Madelaine Fahrenwald là một biên tập viên độc lập, và học giả lâu năm về Phật pháp.

(Muốn có thêm chi tiết về Dipa Ma, xin xem trên mạng lưới thông tin: www.dipama.com.)

Thiện Nhựt xin thưa vài lời...

Sau hơn ba tuần lễ vừa phỏng dịch vừa đánh máy, Thiện Nhựtđã làm xong nhiệm vụ của đạo hữu Diệu Nhẫn bên Washington gọi điện thoại qua giao phó: chuyển dịch quyển sách Knee Deep In Grace của Amy Schmidt. Kể như đã tạm xong phần vụ của Thiện Nhựt, còn việc xin phép tác giả và trao đến bạn đọc Việt nam, xin để đạo hữu Diệu Nhẫn lo chu tất.

Như bạn đọc đã xem qua nguyên tác, nội dung của quyển sách gồm có ba phần, mà phần Thiện Nhứt thích nhứt chính là phần đầu, thuật lại cuộc đời thật đơn sơ mà rất ly kỳ của Dipa Ma: một người nội trợ ốm yếu, bận rộn, chịu nhiều khổ sở, đã vượt qua tất cả để tu tập Thiền, chứng đắc giác ngộ và giải thoát ngay trong cuộc đời nầy. Chẳng cần phải dùng lời lẽ cao xa, dao to búa lớn, để ca tụng bà -- bà đâu có cần ta ca tụng bà -- chỉ cần khi đọc xong, cứ quay lại nhìn chính mình, mình nhìn vào lòng mình, và... thấy gì? có thấy muốn noi gương bà hay không, hay là vẫn cứ than thân trách phận, sao tôi khổ quá, chẳng có rảnh rang được một chốc để... tu. Bà có dạy, nên tu ngay trong lúc mình đang bận đấy!

Thiện Nhựt rất ngại ngùng khi nhận được sách từ nhà xuất bản gởi tới, quà tặng của Ðạo hữu Diệu Nhẫn, hàng chữ nhan đề Knee Deep In Grace. Chữ Grace là chữ mà Thiện Nhựt đã rất khổ tâm, một là nếu dịch là Hồng ânthì trùng với Hồng Ân của Ðức Phật; hai là Ðạo Phật rất công bằng, chẳng có đối xử riêng với Phật tử, chẳng phải là có ơn huệ riêng gì cho ai cả. Duyên may biết đến Phật, biết đến Pháp, đang đến và sẽ đến với tất cả mọi người chẳng phân biệt chủng tôc, tôn giáo chi cả, miễn là ta có sẵn sàng trong tâm để thừa tiếp duyên may.

Tôi chẳng hoàn toàn đồng ý với tác giả, với các người đã cộng tác với tác giả, về những cảm nghĩ của họ đối với các "kinh nghiệm" tâm linh, các "cảm giác" mà họ nhận thấy trong tâm họ về sự hiện diện của Dipa Ma ngay trong những ngày, tháng, năm mà bà đã lìa cõi đời nầy. Ðấy chẳng phải là tôi chối bỏ sự hiển linh của bực đã giác ngộ, nhưng tôi nghĩ rằng sự linh ứng còn tùy vào sức cảm thông của chính người đương sự. Mà sức cảm thông ấy, phải chăng đã dựa trên nghiệp duyên của từng người, mặc dầu việc hiển linh kia của bực đã giác ngộ và giải thoát đã rưới bủa xuống chung cho mọi sanh linh, tựa như cơn mưa rào thấm nhuần muôn vật. Một trong những "ân sủng" mà Ðức Phật đã ban cho mọi người Phật tử là bảo cho ai nấy đều rõ biết rằng: "Mình làm chủnghiệp duyên của mình"; vận mạng mình nằm trong tay mình, ai biết thừa hưởng ơn huệ đó thì lo tu tập để cải thiện nghiệp, dầu đang ở trong hoàn cảnh khó khăn đến mức nào đi nữa.

Tôi rất hổ thẹn vì mặc dầu đã sống hơn hai mươi năm trên miền Bắc Mỹ châu nầy, tôi còn chưa quen rành với lối nói đặc thù, với nền văn hoá thực tiễn của người Mỹ, khiến cho việc phỏng dịch quyển sách quí báu nầy chưa được trôi chảy như ý muốn. Nhiều từ ngữ, nhiều ý văn đã "bị" tôi lướt bỏ qua, lại còn ở vài đoạn tôi "lén thêm" vào ít hình dung từ, đôi ba thành ngữ, cho "ra vẻ" Việt nam một chút. Tôi xin cáo lỗi với các tác giả, và xin sám hối trước với các đọc giả Việt nam, nếu có, khi đọc đến bản dịch nầy.

Sau cùng, tôi xin tán thán công phu nhiều năm trời của tác giả Amy Schmidt, người chỉ nghe đến Dipa Ma sau khi bà đã chết, sưu tập tài liệu, phỏng vấn thật nhiều người, để viết lại cuộc đời ly kỳ của một bà nội trợ Ấn độ, tranh đấu với hoàn cảnh khổ sở để tu tập chứng đắc giác ngộ và giải thoát rồi đem kinh nghiệm đó chỉ lại cho hàng xóm, cho bằng hữu cả Ðông và Tây phương. Nếu được phép tóm tắt lại quyển sách, tôi xin nói thêm: "Một người nội trợ ít học, khổ sở như bà đã làm được, sao ta lại chẳng làm được?"

Nguyện cầu mọi người thấm nhuần "ân sủng" của Dipa Ma trong hồng ân của Ðức Phật!

Montreal, 2003-01-01,
Thiện Nhựt

--- o0o ---

Source: http://www.budsas.org/

Vi tính: Diệu Nga, Diệu An

Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567