Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần III: Ứng dụng sự tu tập Ngũ uẩn trong đời sống hiện tại

14/05/201312:26(Xem: 9697)
Phần III: Ứng dụng sự tu tập Ngũ uẩn trong đời sống hiện tại

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam

Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam

TP Hồ Chí Minh

Khóa III (1993-1997)

Nhân sinh quan Phật giáo

(Luận văn tốt nghiệp)

---o0o---

GSHD:TT Thích Trí Quảng

Ni sinh:Thích nữ Như Ngọc

---o0o---

Phần III:

ỨNG DỤNG SỰ TU TẬP NGŨ UẨN TRONG ÐỜI SỐNG HIỆN TẠI

Văn minh, văn hóa càng phát triển bao nhiêu thì công việc tổ chức thế giới của con người càng đa diện và phức tạp bấy nhiêu. Cứ nhìn những thanh niên nam nữ ngày nay, chúng ta đủ thấy môt thực trạng vô cùng lo ngại. Hơn nữa họ lại không ý thức được tình trạng của mình; Họ lao mình tới những văn minh, văn hóa ngoại lai trong một cơn sốt. Họ đang bệnh hoạn, hoặc suy thoái tinh thần, đang lâm vào cơn hiểm nghèo, chìm sâu vào khủng hoảng.

Khi phân tích con người thành ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức - nói theo từ hiện đại là thân thể, tình cảm, tư tưởng, tánh tình, tri thức - trí huệ đạo Phật cho chúng ta thấy cả năm thứ này đều chi phối con người từ khi mới sanh đến khi chết. Và đường hướng giáo dục toàn diện của đạo Phật là phát triển đồng đều, thăng bằng cả thân và tâm. Nói cách khác, Ðức Phật không tách rời thân thể khỏi tâm trí con người.

Sau khi đã quán sát ngũ uẩn để biết rõ về con người và thế giới, chúng ta sẽ từng bước ứng dụng sự tu tập ngũ uẩn nhằm đạt lợi ích thiết thực qua một vài phạm trù sau:

1-Y học:

Cơ thể con người chẳng khác nào một bộ máy hoạt động không ngừng. Dù khoa học và y học có tiến bộ đến đâu chăng nữa, con người như một bộ máy vẫn bị luật vô thường chi phối. Tuy nhiên, nếu biết cách điều chỉnh thân tâm qua kinh nghiệm và những pháp vệ sinh, con người có thể kéo dài đời sống, tránh được tình trạng suy yếu, bệnh tật, xây dựng một nếp sống lành mạnh, tinh khiết.

Người Tây Phương có câu: ‘Một tinh thần minh mẫn ở trong một thân thể khỏe mạnh’. Thân thể khỏe mạnh có thể ví như ngôi nhà vững chắc hay con thuyền ra khơi thực hiện một chuyến du hành bình an với máy móc và thiết bị an toàn.

Thân con người thuộc sắc uẩn, do tứ đại hiệp thành nên phải dùng tứ đại bổ sung, như cơm, thuốc .. Người xưa thường nói: ‘Con người ta ăn để mà sống’. Về vấn đề điều hòa thân tâm để tu học, Ðức Phật luôn dạy người xuất gia là phải ‘Thiểu dục tri túc’.

‘ Vua Di Lan Ðà hỏi Ngài Na Tiên kỳ kheo:

-Sa môn có tự yêu thân mình không? Ðáp: - Không.

-Nếu chẳng tự yêu thân sao còn ở nhà mặc ấm, ăn thức ăn ngon và tự muốn bảo vệ nó?

Na Tiên hỏi gặn lại:

-Nhà vua đã từng vào chiến trận chứ? Ðáp : Có.

-Khi vào trận có bị thương chưa? – Có, vì bị dao đâm và tên nó chọt.

-Rồi Ngài làm sao? - Tôi lấy thuốc băng bó.

-Vì yêu vết thương mà băng bó hay sao? - Không phải, chỉ vì muốn nó mau lành.

Ngài Na Tiên nói:’ Các sa môn cũng thế, chẳng vì yêu thân, nên không ăn sang, mặc đẹp, chỉ dùng để chi độ cho thân thể đặng có sức khỏe phụng hành đạo pháp của Ðức Phật mà thôi.’[1]

Do đó, tuy dùng tứ đại bổ sung cho tứ đại, người xuất gia khi thọ thực vẫn thường quán tưởng, xem thức ăn như những món thuốc hay để trừ bịnh đói, nhằm trừ tâm đắm trước.

Theo đà phát triển của khoa học hiện nay, ngành Tây y đã chế ra nhiều loại thuốc kháng sinh, vitamin để trị liệu cho cơ thể con người. Tuy nhiên thuốc hay, đồ bổ cũng là con dao hai lưỡi, khéo xử dụng thì nó là bạn, còn dùng một cách tham lam tùy tiện thì con người sẽ là nạn nhân của thuốc do chính mình xử dụng. Thời hiện đại, con người mắc nhiều chứng bịnh ngặt nghèo kỳ lạ, nên việc hiểu biết những kiến thức y học cơ bản nhằm phát hiện được bệnh qua một số dấu vết để chữa kịp thời là điều cần thiết cho mọi người.

Như chúng ta đã biết ngũ uẩn cấu tạo nên cơ thể con người, chúng không thể tách rời mà luôn tác động hỗ tương cho nhau. Nhưng có thể nói trong hai phần Sắc và Tâm thì Tâm đóng vai trò chủ động tác động lên thân. Cổ Ðức nói: ‘Hữu tâm thì vô tướng, tướng tự tâm sanh, hữu tướng vô tâm, tướng tùng tâm diệt’. Khi tâm hồn phấn khởi thì mọi vật đều nhuốm màu hồng, thấy đời có vẻ dễ chịu, không hoài nghi, thắc mắc. Nhưng khi cơn buồn sầu đến thì con người cảm thấy cô đơn, cảm thấy bị tách rời khỏi vũ trụ,cô lập khỏi xã hội.

‘Bởi vì mắt ngắm trời xanh

Cho nên mắt cũng long lanh màu trời.

Bởi vì mắt ngắm biển khơi

Cho nên mắt cũng xa vời đại dương’

(Phạm Thiên Thư)

Ngành Ðông y ngoài việc bổ các loại thuốc cây cỏ lấy từ thiên nhiên cũng rất chú trọng đến phần tâm thần của con người. Theo Ðông y từ thất tình, lục dục, (hỉ, nộ, ái, ố..) tâm bịnh đã dẫn đến thân bịnh tác động vào lục phủ ngũ tạng như sau:

‘Ưu tư quá độ thương TỲ,

Buồn rầu thương PHẾ’, giận thì hại GAN.

Kinh sợ làm THÂN nguy nan

Vui mừng TÂM tổn nên an định thần.

(Lương Y An Triệu)

(thương : làm tổn thương)

Nếu hiểu thêm về pháp Ngũ hành, có thể dùng phương pháp ngôn trị(dùng lời nói) để làm giảm những nội kết đem lại thăng bằng cho thân tâm con người.

Ðó là những diễn biến tâm lý của thọ, tưởng, hành, thức mà chúng ta cần dùng trí quán để nhận ra nó và không bị nó cuốn trôi hay khiến mình thành nô lệ khổ đau. Bàn về pháp dưỡng sinh, Tổ Ðông Y Việt Nam là Thiền sư Tuệ Tĩnh dạy phải ‘Thanh tâm quả dục’ (giữ tâm trong sạch, ít ham muốn).

Ðạo Phật luôn chủ trương hóa giải tận gốc thân bệnh cũng như tâm bệnh của con người. Ðối với Ðạo Phật, hạnh phúc thật sự là sự an lạc nội tâm. Hiện nay pháp Thiền của Phật giáo được rất nhiều người trên thế giới hâm mộ và thực hành. Họ không chỉ xem đây là phương pháp dưỡng sinh phòng chống bệnh tật mà còn tìm đến Thiền như một con đường quay về sự thăng bằng của nội tâm, giải tỏa stress, những trạng thái căng thẳng thần kinh, sự bất ổn về mặt tâm lý trong cuộc sống hiện tại.

Ngoài những phương pháp tọa thiền, an tịnh tâm với các đề mục quán chiếu, pháp Thiền quán được các vị Thiền sư hướng dẫn áp dụng trong mọi lúc con người hoạt động, gọi là ‘Chánh niệm’. Cần giữ chánh niệm trong mọi lúc, tức luôn dùng trí quán sát con người và thế giới chung quanh có cùng mối tương quan, tất cả như là huyễn, hòa hợp theo duyên. Nhận diện từng thọ, tưởng với trí quán liên tục sẽ tạo nên những hạt giống tốt huân tập vào tiềm thức (tâm thức). Cứ như vậy con người sẽ thấy một cuộc sống mới mở ra trước mắt. Nhờ đó, con người cảm thấy tự tin hơn và có thể phát triển khả năng sáng tạo, điều chỉnh, hoàn thành nhân cách; Cao hơn nữa là thể nhập được nội tâm, tự tại, an vui, làm tất cả nhưng không vương mắc vào bất cứ việc gì.

Vua Kosala một hôm bạch Phật rằng: ‘Khác với đồ đệ các tôn giáo khác thường hốc hác, xanh xao, ít ưa nhìn... , đồ đệ của Ngài luôn vui vẻ, thanh thoát, hồn nhiên, thư thái.. ‘ Vua tin rằng : tính chất lành mạnh đó là do: ‘Những vị Thượng tọa này chắc chắn đã nhận chân toàn vẹn ý nghĩa giáo lý của Ðức Thế Tôn’[2]

Chúng ta ngày nay tuy không được như những bậc Thánh xưa, nhưng vì chúng ta là đệ tử của Phật, hiểu lời Phật dạy, lúc nào chúng ta tỉnh giác, lúc đó chúng ta có an lạc.

2-Môi trường sống:

Hyppocrate, ông tổ nền Tây y, cho rằng môi trường thiên nhiên chung quanh luôn tác động đến con người; Vì thế người thầy thuốc phải quan tâm đến cách sinh sống, ăn uống, tuổi tác, hoàn cảnh, đất đai, nguồn nước, khí hậu, thời tiết chung quanh bệnh nhân. Nhưng gần đây, sự lo sợ một cuộc chiền tranh nguyên tử tiêu diệt nhân loại sau chiến tranh thế giới lần II lại được cộng thêm với một nỗi lo sợ mới là tai họa hủy diệt môi sinh, tai họa đưa con người vào cảnh diệt vong còn mau hơn tai họa chiến tranh.

Vấn đề bảo vệ sinh thái môi trường được đề ra tạo nên một phong trào lớn để con người nỗ lực đấu tranh cứu vãn sự sống của con người trên toàn thế giới trước thực trạng ô nhiễm, suy thoái. Sự ô nhiễm, suy thoái này đã làm kiệt quệ dần dần môi trường sống của con người và hàng trăm triệu loài động vật trên hành tinh này.

Phật giáo không chủ trương tách rời tâm khỏi vật, con người khỏi môi trường; Môi trường hay thế giới với con người ngũ uẩn là một. Thế mà, hành tinh của chúng ta đang bị ô nhiễm từ lòng đất, nước biển, sông, hồ, rừng cây, làng mạc, đô thị và cả bầu khí quyển đang bị tam độc tham, sân, si thúc đẩy. Vì lạc thú, vì lợi lộc, vì hận thù, con người bằng vô số hình thức đang hủy hoại môi sinh, tức đang hủy hoại mình và vô số chúng sanh khác’.[3]

Con người ngày nay chỉ biết có xã hội loài người, nhất là đối với con người sống nơi thành thị, hầu như lúc nào cũng nhìn thấy không gì hơn là những sự vật do con người tạo ra từ sự phát triển của xã hội. Họ đã quên hẳn thế giới thiên nhiên và hủy hoại thiên nhiên để chạy theo nhu cầu văn minh vật chất.

Quay về vũ trụ và thọ hưởng nó, không phải là độc quyền của những thi sĩ và nghệ sĩ. Vũ trụ sẽ tiết lộ cho bất cứ ai muốn thấy nó. Những kẻ chìm đắm, sa đọa phải ngước mắt nhìn vũ trụ và thấy chính mình là một phần của vũ trụ.

Khi Phật còn tại thế, việc bảo vệ môi sinh chưa đặt thành vấn đề, nhưng với lòng từ bi cứu khổ và trí tuệ sáng suốt, Ðức Phật với vai trò bậc Ðạo sư đã chủ động tìm cách xây dựng cho mình và hội chúng Tăng già một nếp sống hài hòa với thiên nhiên, một đạo tràng tu tập hướng tới giác ngộ và Niết bàn.

Trong nhiều bài thi kệ ngộ đạo, các vị thiền sư luôn thể hiện rõ ý này:

‘Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tùng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai’.

(Cáo tật thị chúng- Mãn Giác thiền sư) 

Dịch nghĩa:

Xuân đi trăm hoa rụng

Xuân đến trăm hoa cười

Trước mắt việc đi mãi

Trên đầu già đến rồi

Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết

Ðêm qua sân trước một cành mai’

(Bản dịch của HT Quảng Ðộ)

Cảnh Xuân đến, Xuân đi, hoa nở, hoa tàn, phải chăng là nhũng bài học sinh động của thiên nhiên dạy chúng ta về cuộc đời vô thường, các pháp vô ngã... và trong bức tranh vô thường đó, thiền sư vẫn cảm nhận sự sống là bất diệt.

Như thế, Ðức Phật đề cao một nếp sống hài hòa với thiên nhiên và hài hòa với cả con người với tâm vô lượng. Phật tử đến với thiên nhiên như con ong đến với hoa:

‘Như ong chỉ lấy nhụy

Không hại hương sắc hoa

Cũng vậy vị Sa môn

Ra vào giữa thôn làng’

(Pháp cú 49)

Thiên nhiên yên tĩnh rất thích hợp với pháp thiền quán của Phật dạy. Người Phật tử chúng ta phải học theo nếp sống của Bổn sư, sống gần thiên nhiên, xa chỗ ồn ào, bụi bặm, đưa thiên nhiên đến tận trong nhà mình. Làm như thế, tức là truyền đạo, hành đạo. Không những xây dựng môi trường tu học lý tưởng đem đến sự yên tĩnh, sự tiến bộ về trí huệ cho tâm hồn được giải thoát tự tại còn góp phần bảo vệ được môi sinh cũng là bảo vệ lấy chính mình. 

3- Phát triển tâm linh:

Khi đã hiểu rõ ngũ uẩn là hiểu rõ chính mình. Từ đó, chúng ta tu tập để đưa tâm thức lên tầng cao hơn. Ðó là từng bước chuyển ngũ uẩn hữu lậu thành Ngũ uẩn vô lậu.

Trước hết, muốn xây dựng một cuộc sống hạnh phúc phải dựa vào phápchính bản thân con người. Trên bình diện xã hội, dựa vào pháp có nghĩa là căn cứ theo quy luật tự nhiên của xã hội và dựa vào bản thân, là không nương tựa vào Thượng Ðế hay một quyền năng siêu nhiên nào. Về vấn đề này, Ðức Phật dạy Ngài A-nan:

Làm thế nào để có thể là hòn đảo hay chỗ trú ẩn của chính mình. Ấy là nhờ sự đào luyện của ý thức về thân xác, cảm giác, tâm ... (tu tập Tứ niệm xứ)’[4]

Từ chỗ có cuộc sống nội tại vững chắc, con người có được trí óc bình tĩnh sáng suốt với cái nhìn toàn diện về mọi sự vật. Trong Kinh Hoa Nghiêm, tiến trình chuyển ngũ uẩn hữu lậu thành vô lậu rất rõ ràng qua việc trình bày mười thân Phật.

Ngũ uẩn là căn bản xuất phát của muôn sự muôn vật. Ðức Phật cũng dùng thân ngũ uẩn này để làm Phật sự. Chúng ta cũng phải tu tập để không bị ngũ uẩn chi phối, không làm nô lệ cho nó dù mang thân vật chất kẹt với sắc uẩn, luôn bị bốn tướng nóng, lạnh, đói, khát ràng buộc. Ðiểm trọng yếu là ở chỗ đào luyện tâm. Chỉ cần sống với Thức uẩn, dù chưa phải là chơn tâm, chúng ta cũng không bị bốn tướng này chi phối.

‘Cần theo dõi và chuyển hóa phiền não trong tâm, không nên đè nén vì càng đè nén nó càng lớn. Nguyên tắc tương tức bất nhị của sự tu học là:

-Nhờ những tư tưởng, hành động (hạt giống tốt) để chuyển hóa.

-Nhận diện chúng, khi chúng xuất hiện trong ý thức

-Mời nó lên, trực diện với phiền não dưới ánh sáng chánh niệm.

Cứ mỗi ngày quán chiếu một ít dưới chánh niệm (trí huệ), chúng ta sẽ chuyển hóa được những niềm đau làm chúng ta sợ.’[5]

Ðau khổ cũng như mọi hiện hữu khác, là cần thiết cho tuệ giác nếu ta biết quán chiếu nó, nhìn sâu vào bản chất nó để tìm lối ra. Vì vậy, đau khổ là một Thánh đế, một sự thật linh thiêng, vì nó giúp ta giác tĩnh đi nhanh ra khỏi tham ái và chấp thủ để vào các Thánh quả.

Từ ngũ uẩn làm gốc, theo cái nhìn của Hoa Nghiêm, mọi vật trên cuộc đời từ dòng suối chảy đến tiếng chim, ngọn lá ... đều tỏa ánh sáng, mọi thứ đều là pháp thân của Phật. Nó như thế và muôn đời vẫn thế. Ðây là thế giới Hoa Nghiêm và là nơi kinh Pháp Hoa nói:

Chư Pháp tùng bản lai, Thường tự tịch diệt tướng’

Nhìn rõ cuộc đời và con người, ta phải tạo dựng một tri thức vững chắc trên thân bao gồm những đức tính tốt đẹp và một thân thể khỏe mạnh với đủ ba phước tướng: Tâm hoan hỉ, thân khỏe mạnh, và bạn bè tốt.(TT. Trí Quảng). Từ đây, ta có thể vào đời làm lợi ích cho nhân sanh theo hạnh nguyện của Bồ Tát và có thể tu tập đến những bước cao hơn.

‘Khi đã đầy đủ tâm từ bi, tròn hạnh Bồ tát kết thành Như Lai thân, hành giả không còn phải dấn thân như Bồ tát, không ẩn cư như Duyên giác, không trao đổi, sách tấn tu như Thinh văn. Như Lai không từ đâu tới và không đi về đâu. Chính thân đó tác động qua các loài chúng sanh, giáo hóa mọi người mà không cẩn cử thân động niệm. Như Lai như như bất động mà hóa độ chúng sanh bằng trí của Ngài và trí Như Lai chiếu đến đâu thì ở đó là Pháp thân. Ðó là Như Lai huệ chiếu vào vũ trụ, là trạng thái Chơn như bừng sáng với trí huệ thấu suốt mọi vật.’[6]

Ðấy cũng chính là chỗ mà Thiền sư Pháp Thuận đã nói:

‘Vô vi cư điện các

Xứ xứ tức đao binh’ 

Trong hiện tại chúng ta cần luôn quan sát với trí huệ Bát nhã thấy ngũ uẩn là trống không, không tự ngã chứng nhập đương thể vô ngã của các Pháp. Ðương thể ấy vô sanh nên vô đắc. Cho nên thấy có Niết bàn mà không thấy có người đắc, tự tại không vướng mắc gì. Ðó là Niết bàn ngay trong hiện tại, như Hòa Thượng Thiền Ấn đã có kệ:

‘Tánh tịnh tướng, tướng tịnh tánh. Phi trung, phi ngoại liễu đốn siêu.

Tâm sanh Pháp, Pháp sanh tâm. Bất tức, bất ly, hành thâm tự tại.’ 



[1]Kinh Lời Vàng, HT Trí Nghiêm dịch, THPG TPHCM, 1992. tr. 99

[2]Con đường thoát khổ, sđd, tr. 49

[3]Trích phát biểu của HT Minh Châu; Một số vần đề cơ bản về sinh thái môi trường.

[4]Con đường thoát khổ, sđd, tr. 92

[5]Giảng luận Duy biểu học, TT Nhất Hạnh, Lá Bối, 1996, tr. 310

[6]Quan niệm về Ðức Phật trong kinh Hoa Nghiêm, TT Trí Quảng.

---o0o---


Vi tính: Tâm Diệu

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/06/2024(Xem: 2793)
Cùng toàn thể giới tử thọ trì Bát quan trai giới một ngày một đêm tại trú xứ Tăng già-lam Phước duyên, thành phố Huế, hiện diện quý mến. Một ngày một đêm quý vị ở trong Tịnh giới với niềm tin thanh tịnh, kiên cố, bất hoại đối với Tam bảo. Nhờ niềm tin này mà quý vị không để cho Giới pháp của mình bị sứt mẻ ở trong đi, ở trong đứng, ở trong nằm, ở trong ngồi, ở trong sự nói năng, giao tiếp. Quý vị có được niềm tin này là nhờ quý vị nuôi lớn sáu tính chất của Tam bảo, khiến cho ba nghiệp của quý vị được an tịnh, an tịnh về thân hành, an tịnh về ngữ hành, an tịnh về ý hành. Sáu tính chất của Tam bảo, quý vị phải thường quán chiếu sâu sắc, để thể nhập và tạo ra chất liệu cho chính mình, ngay đời này và đời sau. Sáu tính chất của Tam bảo gồm:
30/04/2024(Xem: 2546)
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu: “Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” Có nghĩa là: “Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
07/02/2024(Xem: 6017)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
19/12/2023(Xem: 8180)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
13/12/2023(Xem: 14955)
Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
13/12/2023(Xem: 13623)
Đức Phật của Chúng Ta (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
09/06/2023(Xem: 2928)
Bộ phim Phi Thuyền Serenity (2005) với thể loại khoa học viễn tưởng đã giới thiệu một hình ảnh tên là Miranda, nơi các vấn đề của nhân loại được giải quyết thông quan khoa học công nghệ. Tham lam, giận dữ, si mê (tam độc), phiền não bởi buồn bã, lo lắng và tuyệt vọng - rõ ràng là trùng lặp với một số kiết sử cổ điển của Phật giáo (Skt., Pali: samyojana)
19/05/2023(Xem: 4499)
Tôi đã rất ấn tượng bởi một số chủ đề trùng lặp mà tôi gặp phải từ một số tác giả rất khác nhau. Cụ thể tôi đã thưởng ngoạn tác phẩm “Sapiens: Lược Sử Loài Người” (קיצור תולדות האנושות‎, Ḳitsur toldot ha-enoshut) của Tác giả, Thiền giả, Giáo sư Khoa Lịch sử tại Đại học Hebrew Jerusalem, Cư sĩ Yuval Noah Harari, một tác phẩm nói bao quát về lịch sử tiến hóa của loài người từ thời cổ xưa trong thời kỳ đồ đá cho đến thế kỷ XXI, tập trung vào loài "Người tinh khôn" (Homo sapiens). Được ghi chép lại với khuôn khổ được cung cấp bởi các ngành khoa học tự nhiên, đặc biệt là sinh học tiến hóa.
03/05/2023(Xem: 10324)
Khi Phật giáo (PG) du nhập vào Trung Hoa (TH) lần đầu tiên từ Ấn-độ và Trung Á thì những TH theo PG có khuynh hướng coi tôn giáo này là một phần hay một phái của Đạo Giáo Hoàng Lão, một hình thức Đạo Giáo bắt nguồn từ kinh sách và pháp thực hành được coi là của Hoàng Đế và Lão Tử. Những người khác chấp nhận ít hơn tôn giáo “ngoại lai” xâm nhập từ các xứ Tây Phương “man rợ” này PG là xa lạ và là một sự thách thức nguy hiểm cho trật tự xã hội và đạo đức TH, Trong mấy thế kỷ, hai thái độ này tạo thành cái nôi mà ở trong đó sự hiểu biết PG của người TH thành kính, trong khi các nhà
21/04/2023(Xem: 11411)
Thượng Tọa Thích Trí Siêu từ Pháp Quốc sẽ giảng pháp tại Úc Châu vào tháng 4 năm 2023 -- Thượng Tọa Thích Trí Siêu sinh năm 1962 tại Sài Gòn. Theo cha mẹ tỵ nạn qua Pháp năm 1975. Năm 1985 nhập chúng tu học tại Tự Viện Linh-Sơn, tỉnh Joinville-le-Pont, Paris. Năm 1987 thọ cụ túc giới với Hòa Thượng Thích Huyền-Vi. Tuy xuất thân từ Đại Thừa, nhưng Thầy đã không ngần ngại du phương tham vấn và tu học với nhiều truyền thống khác như : Nguyên Thủy, Đại Thừa, Kim Cang Thừa Tây Tạng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com