Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần III: Ứng dụng sự tu tập Ngũ uẩn trong đời sống hiện tại

14/05/201312:26(Xem: 9021)
Phần III: Ứng dụng sự tu tập Ngũ uẩn trong đời sống hiện tại

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam

Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam

TP Hồ Chí Minh

Khóa III (1993-1997)

Nhân sinh quan Phật giáo

(Luận văn tốt nghiệp)

---o0o---

GSHD:TT Thích Trí Quảng

Ni sinh:Thích nữ Như Ngọc

---o0o---

Phần III:

ỨNG DỤNG SỰ TU TẬP NGŨ UẨN TRONG ÐỜI SỐNG HIỆN TẠI

Văn minh, văn hóa càng phát triển bao nhiêu thì công việc tổ chức thế giới của con người càng đa diện và phức tạp bấy nhiêu. Cứ nhìn những thanh niên nam nữ ngày nay, chúng ta đủ thấy môt thực trạng vô cùng lo ngại. Hơn nữa họ lại không ý thức được tình trạng của mình; Họ lao mình tới những văn minh, văn hóa ngoại lai trong một cơn sốt. Họ đang bệnh hoạn, hoặc suy thoái tinh thần, đang lâm vào cơn hiểm nghèo, chìm sâu vào khủng hoảng.

Khi phân tích con người thành ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức - nói theo từ hiện đại là thân thể, tình cảm, tư tưởng, tánh tình, tri thức - trí huệ đạo Phật cho chúng ta thấy cả năm thứ này đều chi phối con người từ khi mới sanh đến khi chết. Và đường hướng giáo dục toàn diện của đạo Phật là phát triển đồng đều, thăng bằng cả thân và tâm. Nói cách khác, Ðức Phật không tách rời thân thể khỏi tâm trí con người.

Sau khi đã quán sát ngũ uẩn để biết rõ về con người và thế giới, chúng ta sẽ từng bước ứng dụng sự tu tập ngũ uẩn nhằm đạt lợi ích thiết thực qua một vài phạm trù sau:

1-Y học:

Cơ thể con người chẳng khác nào một bộ máy hoạt động không ngừng. Dù khoa học và y học có tiến bộ đến đâu chăng nữa, con người như một bộ máy vẫn bị luật vô thường chi phối. Tuy nhiên, nếu biết cách điều chỉnh thân tâm qua kinh nghiệm và những pháp vệ sinh, con người có thể kéo dài đời sống, tránh được tình trạng suy yếu, bệnh tật, xây dựng một nếp sống lành mạnh, tinh khiết.

Người Tây Phương có câu: ‘Một tinh thần minh mẫn ở trong một thân thể khỏe mạnh’. Thân thể khỏe mạnh có thể ví như ngôi nhà vững chắc hay con thuyền ra khơi thực hiện một chuyến du hành bình an với máy móc và thiết bị an toàn.

Thân con người thuộc sắc uẩn, do tứ đại hiệp thành nên phải dùng tứ đại bổ sung, như cơm, thuốc .. Người xưa thường nói: ‘Con người ta ăn để mà sống’. Về vấn đề điều hòa thân tâm để tu học, Ðức Phật luôn dạy người xuất gia là phải ‘Thiểu dục tri túc’.

‘ Vua Di Lan Ðà hỏi Ngài Na Tiên kỳ kheo:

-Sa môn có tự yêu thân mình không? Ðáp: - Không.

-Nếu chẳng tự yêu thân sao còn ở nhà mặc ấm, ăn thức ăn ngon và tự muốn bảo vệ nó?

Na Tiên hỏi gặn lại:

-Nhà vua đã từng vào chiến trận chứ? Ðáp : Có.

-Khi vào trận có bị thương chưa? – Có, vì bị dao đâm và tên nó chọt.

-Rồi Ngài làm sao? - Tôi lấy thuốc băng bó.

-Vì yêu vết thương mà băng bó hay sao? - Không phải, chỉ vì muốn nó mau lành.

Ngài Na Tiên nói:’ Các sa môn cũng thế, chẳng vì yêu thân, nên không ăn sang, mặc đẹp, chỉ dùng để chi độ cho thân thể đặng có sức khỏe phụng hành đạo pháp của Ðức Phật mà thôi.’[1]

Do đó, tuy dùng tứ đại bổ sung cho tứ đại, người xuất gia khi thọ thực vẫn thường quán tưởng, xem thức ăn như những món thuốc hay để trừ bịnh đói, nhằm trừ tâm đắm trước.

Theo đà phát triển của khoa học hiện nay, ngành Tây y đã chế ra nhiều loại thuốc kháng sinh, vitamin để trị liệu cho cơ thể con người. Tuy nhiên thuốc hay, đồ bổ cũng là con dao hai lưỡi, khéo xử dụng thì nó là bạn, còn dùng một cách tham lam tùy tiện thì con người sẽ là nạn nhân của thuốc do chính mình xử dụng. Thời hiện đại, con người mắc nhiều chứng bịnh ngặt nghèo kỳ lạ, nên việc hiểu biết những kiến thức y học cơ bản nhằm phát hiện được bệnh qua một số dấu vết để chữa kịp thời là điều cần thiết cho mọi người.

Như chúng ta đã biết ngũ uẩn cấu tạo nên cơ thể con người, chúng không thể tách rời mà luôn tác động hỗ tương cho nhau. Nhưng có thể nói trong hai phần Sắc và Tâm thì Tâm đóng vai trò chủ động tác động lên thân. Cổ Ðức nói: ‘Hữu tâm thì vô tướng, tướng tự tâm sanh, hữu tướng vô tâm, tướng tùng tâm diệt’. Khi tâm hồn phấn khởi thì mọi vật đều nhuốm màu hồng, thấy đời có vẻ dễ chịu, không hoài nghi, thắc mắc. Nhưng khi cơn buồn sầu đến thì con người cảm thấy cô đơn, cảm thấy bị tách rời khỏi vũ trụ,cô lập khỏi xã hội.

‘Bởi vì mắt ngắm trời xanh

Cho nên mắt cũng long lanh màu trời.

Bởi vì mắt ngắm biển khơi

Cho nên mắt cũng xa vời đại dương’

(Phạm Thiên Thư)

Ngành Ðông y ngoài việc bổ các loại thuốc cây cỏ lấy từ thiên nhiên cũng rất chú trọng đến phần tâm thần của con người. Theo Ðông y từ thất tình, lục dục, (hỉ, nộ, ái, ố..) tâm bịnh đã dẫn đến thân bịnh tác động vào lục phủ ngũ tạng như sau:

‘Ưu tư quá độ thương TỲ,

Buồn rầu thương PHẾ’, giận thì hại GAN.

Kinh sợ làm THÂN nguy nan

Vui mừng TÂM tổn nên an định thần.

(Lương Y An Triệu)

(thương : làm tổn thương)

Nếu hiểu thêm về pháp Ngũ hành, có thể dùng phương pháp ngôn trị(dùng lời nói) để làm giảm những nội kết đem lại thăng bằng cho thân tâm con người.

Ðó là những diễn biến tâm lý của thọ, tưởng, hành, thức mà chúng ta cần dùng trí quán để nhận ra nó và không bị nó cuốn trôi hay khiến mình thành nô lệ khổ đau. Bàn về pháp dưỡng sinh, Tổ Ðông Y Việt Nam là Thiền sư Tuệ Tĩnh dạy phải ‘Thanh tâm quả dục’ (giữ tâm trong sạch, ít ham muốn).

Ðạo Phật luôn chủ trương hóa giải tận gốc thân bệnh cũng như tâm bệnh của con người. Ðối với Ðạo Phật, hạnh phúc thật sự là sự an lạc nội tâm. Hiện nay pháp Thiền của Phật giáo được rất nhiều người trên thế giới hâm mộ và thực hành. Họ không chỉ xem đây là phương pháp dưỡng sinh phòng chống bệnh tật mà còn tìm đến Thiền như một con đường quay về sự thăng bằng của nội tâm, giải tỏa stress, những trạng thái căng thẳng thần kinh, sự bất ổn về mặt tâm lý trong cuộc sống hiện tại.

Ngoài những phương pháp tọa thiền, an tịnh tâm với các đề mục quán chiếu, pháp Thiền quán được các vị Thiền sư hướng dẫn áp dụng trong mọi lúc con người hoạt động, gọi là ‘Chánh niệm’. Cần giữ chánh niệm trong mọi lúc, tức luôn dùng trí quán sát con người và thế giới chung quanh có cùng mối tương quan, tất cả như là huyễn, hòa hợp theo duyên. Nhận diện từng thọ, tưởng với trí quán liên tục sẽ tạo nên những hạt giống tốt huân tập vào tiềm thức (tâm thức). Cứ như vậy con người sẽ thấy một cuộc sống mới mở ra trước mắt. Nhờ đó, con người cảm thấy tự tin hơn và có thể phát triển khả năng sáng tạo, điều chỉnh, hoàn thành nhân cách; Cao hơn nữa là thể nhập được nội tâm, tự tại, an vui, làm tất cả nhưng không vương mắc vào bất cứ việc gì.

Vua Kosala một hôm bạch Phật rằng: ‘Khác với đồ đệ các tôn giáo khác thường hốc hác, xanh xao, ít ưa nhìn... , đồ đệ của Ngài luôn vui vẻ, thanh thoát, hồn nhiên, thư thái.. ‘ Vua tin rằng : tính chất lành mạnh đó là do: ‘Những vị Thượng tọa này chắc chắn đã nhận chân toàn vẹn ý nghĩa giáo lý của Ðức Thế Tôn’[2]

Chúng ta ngày nay tuy không được như những bậc Thánh xưa, nhưng vì chúng ta là đệ tử của Phật, hiểu lời Phật dạy, lúc nào chúng ta tỉnh giác, lúc đó chúng ta có an lạc.

2-Môi trường sống:

Hyppocrate, ông tổ nền Tây y, cho rằng môi trường thiên nhiên chung quanh luôn tác động đến con người; Vì thế người thầy thuốc phải quan tâm đến cách sinh sống, ăn uống, tuổi tác, hoàn cảnh, đất đai, nguồn nước, khí hậu, thời tiết chung quanh bệnh nhân. Nhưng gần đây, sự lo sợ một cuộc chiền tranh nguyên tử tiêu diệt nhân loại sau chiến tranh thế giới lần II lại được cộng thêm với một nỗi lo sợ mới là tai họa hủy diệt môi sinh, tai họa đưa con người vào cảnh diệt vong còn mau hơn tai họa chiến tranh.

Vấn đề bảo vệ sinh thái môi trường được đề ra tạo nên một phong trào lớn để con người nỗ lực đấu tranh cứu vãn sự sống của con người trên toàn thế giới trước thực trạng ô nhiễm, suy thoái. Sự ô nhiễm, suy thoái này đã làm kiệt quệ dần dần môi trường sống của con người và hàng trăm triệu loài động vật trên hành tinh này.

Phật giáo không chủ trương tách rời tâm khỏi vật, con người khỏi môi trường; Môi trường hay thế giới với con người ngũ uẩn là một. Thế mà, hành tinh của chúng ta đang bị ô nhiễm từ lòng đất, nước biển, sông, hồ, rừng cây, làng mạc, đô thị và cả bầu khí quyển đang bị tam độc tham, sân, si thúc đẩy. Vì lạc thú, vì lợi lộc, vì hận thù, con người bằng vô số hình thức đang hủy hoại môi sinh, tức đang hủy hoại mình và vô số chúng sanh khác’.[3]

Con người ngày nay chỉ biết có xã hội loài người, nhất là đối với con người sống nơi thành thị, hầu như lúc nào cũng nhìn thấy không gì hơn là những sự vật do con người tạo ra từ sự phát triển của xã hội. Họ đã quên hẳn thế giới thiên nhiên và hủy hoại thiên nhiên để chạy theo nhu cầu văn minh vật chất.

Quay về vũ trụ và thọ hưởng nó, không phải là độc quyền của những thi sĩ và nghệ sĩ. Vũ trụ sẽ tiết lộ cho bất cứ ai muốn thấy nó. Những kẻ chìm đắm, sa đọa phải ngước mắt nhìn vũ trụ và thấy chính mình là một phần của vũ trụ.

Khi Phật còn tại thế, việc bảo vệ môi sinh chưa đặt thành vấn đề, nhưng với lòng từ bi cứu khổ và trí tuệ sáng suốt, Ðức Phật với vai trò bậc Ðạo sư đã chủ động tìm cách xây dựng cho mình và hội chúng Tăng già một nếp sống hài hòa với thiên nhiên, một đạo tràng tu tập hướng tới giác ngộ và Niết bàn.

Trong nhiều bài thi kệ ngộ đạo, các vị thiền sư luôn thể hiện rõ ý này:

‘Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tùng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai’.

(Cáo tật thị chúng- Mãn Giác thiền sư) 

Dịch nghĩa:

Xuân đi trăm hoa rụng

Xuân đến trăm hoa cười

Trước mắt việc đi mãi

Trên đầu già đến rồi

Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết

Ðêm qua sân trước một cành mai’

(Bản dịch của HT Quảng Ðộ)

Cảnh Xuân đến, Xuân đi, hoa nở, hoa tàn, phải chăng là nhũng bài học sinh động của thiên nhiên dạy chúng ta về cuộc đời vô thường, các pháp vô ngã... và trong bức tranh vô thường đó, thiền sư vẫn cảm nhận sự sống là bất diệt.

Như thế, Ðức Phật đề cao một nếp sống hài hòa với thiên nhiên và hài hòa với cả con người với tâm vô lượng. Phật tử đến với thiên nhiên như con ong đến với hoa:

‘Như ong chỉ lấy nhụy

Không hại hương sắc hoa

Cũng vậy vị Sa môn

Ra vào giữa thôn làng’

(Pháp cú 49)

Thiên nhiên yên tĩnh rất thích hợp với pháp thiền quán của Phật dạy. Người Phật tử chúng ta phải học theo nếp sống của Bổn sư, sống gần thiên nhiên, xa chỗ ồn ào, bụi bặm, đưa thiên nhiên đến tận trong nhà mình. Làm như thế, tức là truyền đạo, hành đạo. Không những xây dựng môi trường tu học lý tưởng đem đến sự yên tĩnh, sự tiến bộ về trí huệ cho tâm hồn được giải thoát tự tại còn góp phần bảo vệ được môi sinh cũng là bảo vệ lấy chính mình. 

3- Phát triển tâm linh:

Khi đã hiểu rõ ngũ uẩn là hiểu rõ chính mình. Từ đó, chúng ta tu tập để đưa tâm thức lên tầng cao hơn. Ðó là từng bước chuyển ngũ uẩn hữu lậu thành Ngũ uẩn vô lậu.

Trước hết, muốn xây dựng một cuộc sống hạnh phúc phải dựa vào phápchính bản thân con người. Trên bình diện xã hội, dựa vào pháp có nghĩa là căn cứ theo quy luật tự nhiên của xã hội và dựa vào bản thân, là không nương tựa vào Thượng Ðế hay một quyền năng siêu nhiên nào. Về vấn đề này, Ðức Phật dạy Ngài A-nan:

Làm thế nào để có thể là hòn đảo hay chỗ trú ẩn của chính mình. Ấy là nhờ sự đào luyện của ý thức về thân xác, cảm giác, tâm ... (tu tập Tứ niệm xứ)’[4]

Từ chỗ có cuộc sống nội tại vững chắc, con người có được trí óc bình tĩnh sáng suốt với cái nhìn toàn diện về mọi sự vật. Trong Kinh Hoa Nghiêm, tiến trình chuyển ngũ uẩn hữu lậu thành vô lậu rất rõ ràng qua việc trình bày mười thân Phật.

Ngũ uẩn là căn bản xuất phát của muôn sự muôn vật. Ðức Phật cũng dùng thân ngũ uẩn này để làm Phật sự. Chúng ta cũng phải tu tập để không bị ngũ uẩn chi phối, không làm nô lệ cho nó dù mang thân vật chất kẹt với sắc uẩn, luôn bị bốn tướng nóng, lạnh, đói, khát ràng buộc. Ðiểm trọng yếu là ở chỗ đào luyện tâm. Chỉ cần sống với Thức uẩn, dù chưa phải là chơn tâm, chúng ta cũng không bị bốn tướng này chi phối.

‘Cần theo dõi và chuyển hóa phiền não trong tâm, không nên đè nén vì càng đè nén nó càng lớn. Nguyên tắc tương tức bất nhị của sự tu học là:

-Nhờ những tư tưởng, hành động (hạt giống tốt) để chuyển hóa.

-Nhận diện chúng, khi chúng xuất hiện trong ý thức

-Mời nó lên, trực diện với phiền não dưới ánh sáng chánh niệm.

Cứ mỗi ngày quán chiếu một ít dưới chánh niệm (trí huệ), chúng ta sẽ chuyển hóa được những niềm đau làm chúng ta sợ.’[5]

Ðau khổ cũng như mọi hiện hữu khác, là cần thiết cho tuệ giác nếu ta biết quán chiếu nó, nhìn sâu vào bản chất nó để tìm lối ra. Vì vậy, đau khổ là một Thánh đế, một sự thật linh thiêng, vì nó giúp ta giác tĩnh đi nhanh ra khỏi tham ái và chấp thủ để vào các Thánh quả.

Từ ngũ uẩn làm gốc, theo cái nhìn của Hoa Nghiêm, mọi vật trên cuộc đời từ dòng suối chảy đến tiếng chim, ngọn lá ... đều tỏa ánh sáng, mọi thứ đều là pháp thân của Phật. Nó như thế và muôn đời vẫn thế. Ðây là thế giới Hoa Nghiêm và là nơi kinh Pháp Hoa nói:

Chư Pháp tùng bản lai, Thường tự tịch diệt tướng’

Nhìn rõ cuộc đời và con người, ta phải tạo dựng một tri thức vững chắc trên thân bao gồm những đức tính tốt đẹp và một thân thể khỏe mạnh với đủ ba phước tướng: Tâm hoan hỉ, thân khỏe mạnh, và bạn bè tốt.(TT. Trí Quảng). Từ đây, ta có thể vào đời làm lợi ích cho nhân sanh theo hạnh nguyện của Bồ Tát và có thể tu tập đến những bước cao hơn.

‘Khi đã đầy đủ tâm từ bi, tròn hạnh Bồ tát kết thành Như Lai thân, hành giả không còn phải dấn thân như Bồ tát, không ẩn cư như Duyên giác, không trao đổi, sách tấn tu như Thinh văn. Như Lai không từ đâu tới và không đi về đâu. Chính thân đó tác động qua các loài chúng sanh, giáo hóa mọi người mà không cẩn cử thân động niệm. Như Lai như như bất động mà hóa độ chúng sanh bằng trí của Ngài và trí Như Lai chiếu đến đâu thì ở đó là Pháp thân. Ðó là Như Lai huệ chiếu vào vũ trụ, là trạng thái Chơn như bừng sáng với trí huệ thấu suốt mọi vật.’[6]

Ðấy cũng chính là chỗ mà Thiền sư Pháp Thuận đã nói:

‘Vô vi cư điện các

Xứ xứ tức đao binh’ 

Trong hiện tại chúng ta cần luôn quan sát với trí huệ Bát nhã thấy ngũ uẩn là trống không, không tự ngã chứng nhập đương thể vô ngã của các Pháp. Ðương thể ấy vô sanh nên vô đắc. Cho nên thấy có Niết bàn mà không thấy có người đắc, tự tại không vướng mắc gì. Ðó là Niết bàn ngay trong hiện tại, như Hòa Thượng Thiền Ấn đã có kệ:

‘Tánh tịnh tướng, tướng tịnh tánh. Phi trung, phi ngoại liễu đốn siêu.

Tâm sanh Pháp, Pháp sanh tâm. Bất tức, bất ly, hành thâm tự tại.’ 



[1]Kinh Lời Vàng, HT Trí Nghiêm dịch, THPG TPHCM, 1992. tr. 99

[2]Con đường thoát khổ, sđd, tr. 49

[3]Trích phát biểu của HT Minh Châu; Một số vần đề cơ bản về sinh thái môi trường.

[4]Con đường thoát khổ, sđd, tr. 92

[5]Giảng luận Duy biểu học, TT Nhất Hạnh, Lá Bối, 1996, tr. 310

[6]Quan niệm về Ðức Phật trong kinh Hoa Nghiêm, TT Trí Quảng.

---o0o---


Vi tính: Tâm Diệu

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/06/2021(Xem: 8104)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
07/05/2021(Xem: 16344)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12376)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
03/10/2020(Xem: 19775)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
29/04/2020(Xem: 4405)
Xưa nay trên lịch sử loài người, chưa có nhà cách mạng nào đại tài như Đức Phật Thích Ca. Ngài đã thành công vẻ vang trên đường cách mạng bản thân, cách mạng xã hội và cách mạng tư tưởng để giải phóng con người thoát ách nô lệ của Bà La Môn thống trị. Đường lối và phương thức cách mạng của Ngài không giống những nhà cách mạng khác, có thể nói đi trước thời đại và cũng là tiên phong cho những phong trào cách mạng về sau. Sự cách mạng của Ngài khởi điểm tại Ấn Độ, khởi đầu bằng sự thành đạo nơi gốc Bồ đề, sau bốn mươi chín ngày nhập định, tìm ra lối thoát và lẽ sống cho chúng sanh.
23/04/2020(Xem: 4293)
Nhiều người trong chúng ta đang vật lộn với phản ứng của chúng ta, trước những khổ đau của quốc gia dân tộc và thế giới. Chúng ta có thể làm gì khi đối mặt với nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh, bất công và tàn phá môi trường? Theo dòng thời sự, thật dễ dàng để tuyệt vọng, trở nên hoài nghi hoặc tê liệt. Hướng về phía nó là cách tiếp cận của Phật giáo đối với sự đau khổ chung này. Chúng ta hiểu rằng, hạnh phúc và thực sự ý nghĩa sẽ đến, thông qua xu hướng khổ đau. Chúng ta vượt qua tuyệt vọng của chính mình, bằng cách giúp đỡ người khác vượt qua mọi chướng nạn khổ đau.
21/04/2020(Xem: 4994)
Hôm thứ Hai, ngày 20/4/2020, Mạng lưới Phật giáo Dấn thân Quốc tế (The International Network of Engaged Buddhists, INEB) đã tuyên bố công khai trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng toàn cầu do đại dịch Virusconrona gây ra, kêu gọi tất cả mọi người, các quốc gia vùng lãnh thổ và chính phủ, bất kể nền tảng tôn giáo hoặc cá biệt văn hóa chủng tộc hoặc liên kết chính trị, nhận ra tính chất liên kết và “Toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau”. Nhân loại là cơ sở cho một phản ứng toàn cầu thống nhất đối với cuộc khủng hoảng, đã gây nguy hiểm đến hàng triệu người trong các cộng đồng dễ bị tổn thương trên toàn thế giới.
15/04/2020(Xem: 4220)
Chỉ riêng khoa học và công nghệ không thể dừng và tiếp tục chiến tranh, phân biệt chủng tộc, hủy họa môi trường. Ảo tưởng về sự tách biệt thúc đẩy chủ nghĩa tiêu dùng toàn cầu và sự tham lam ích kỷ, sợ hãi và thiếu hiểu biết cần phải được chuyển hóa, bằng việc thực hiện “thực tế tự nhiên” của sự phụ thuộc lẫn nhau, sự soi sáng của trí tuệ và từ bi tâm. Mỗi người trong chúng ta phải tìm ra cách riêng để đóng cho điều này bằng trí tuệ và thực hành, năng lực độc đáo của riêng mình.
08/04/2020(Xem: 4216)
Do có nguy cơ bị đại dịch Virus Corona tấn công, các cơ sở tự viện Phật giáo tại các quốc gia trên thế giới đều đóng cửa (bế môn), để cho công chúng tuân thủ các biện pháp giãn cách toàn xã hội trong thời gian nhất định nào đó. Chư tôn đức giáo thọ Phật giáo đang đưa ra những giáo lý đạo Phật, nhằm nhắc nhở cộng đồng Phật tử từ xa về các yếu tố chính của sự thực hành.
05/04/2020(Xem: 11521)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567