Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01. Sự Trong Sáng Nguyên Ủy

26/04/201317:07(Xem: 4497)
01. Sự Trong Sáng Nguyên Ủy

ĐƯA VÀO MẬT TÔNG

Nguyên tác:Introduction to Tantra

Tác giả:Lama Thubten Yeshe -Biên tập: Jonathan Landaw

Chuyển ngữ: Thích nữ Trí Hải

---o0o---

1 - SỰ TRONG SÁNG NGUYÊN ỦY

NGƯỜI KHAI SÁNG ĐẠO PHẬT

Giáo lý và thực hành mà người ta gọi là Mật điển Phật giáo có thể nói đã bắt nguồn từ 2500 năm trước, vào thời đức Phật Thích ca Mâu Ni. Đức Phật lịch sử- để phân biệt với những đấng giác ngộ khác xuất hiện trước hay sau ngài- ra đời làm một thái tử xứ Ấn tên Siddhartha vào thế kỷ thứ sáu trước Tây lịch. Theo thuyền thuyết, trong 29 năm đầu đời ngài hầu như bị giam hãm trong những lâu đài hoan lạc do phụ vương Suddhodana xây cho con trai. Cuối cùng, khi tiếp xúc cảnh già, bệnh, chết, ngài đã thoát ly cung vua và lên đường tìm phương chấm dứt mọi khổ đau bất mãn.

Trong sáu năm ngài tu tập khổ hạnh gắt gao, cố đạt đến sự làm chủ thân tâm, chỉ để thấy rằng cực đoan ép xác này cũng sai lầm như đời sống đam mê khoái lạc của ngài trước đấy. Cuối cùng, nhờ theo trung đạo không đam mê dục lạc cũng không ép xác khổ hạnh, và tránh tất cả những cực đoan khác nữa, ngài đã có thể nhổ gốc rễ mọi khổ đau và vô minh vi tế nhất ra khỏi tâm trí, trở thành một con người hoàn toàn tỉnh thức, sáng suốt: một vị Phật. Trong 45 năm còn lại của đời ngài, ngài đã giảng dạy Trung đạo trong lối sống và trong sự tu tập bằng nhiều đường lối khác nhau, cốt sao phù hợp với tính tình, khả năng từng hạng người.

Giáo lý của Phật, mà Phạn ngữ gọi là Dharma hay Pháp, là cái giữ gìn chúng ta khỏi đau khổ và nguyên nhân của đau khổ. Pháp ấy chứa đựng hàng ngàn phương cách khác nhau để vượt qua những chướng ngại về tâm và thân đã làm cho chúng ta không được an vui hạnh phúc. Tất cả phương pháp ấy bao gồm trong hai loại là kinh điển và mật điển, còn gọi là hai thừa, cỗ xe. Hai thừa này có nhiều điểm bất đồng, song nền tảng chung của kinh thừa và mật thừa là, bản chất của tâm ta tự căn để, vốn trong sáng.

TÍNH TRONG SÁNG CĂN ĐỂ CỦA TỰ TÂM

Theo giáo lý Phật, dù trong hiện tại ta có thể mê lầm rối ren đến mức nào đi nữa, bản chất căn để, tinh túy của con người chúng ta vẫn trong sạch thuần tịnh. Cũng như mây có thể tạm che khuất mặt trời song không thể phá hủy cái khả năng chiếu sáng của mặt trời, tương tự như thế, những nỗi đau buồn của thân tâm trong giai đoạn - như tâm trạng lo âu bối rối và nỗi khổ mà nó gây ra - chỉ có thể tạm che mờ chứ không thể phá hủy hay ngay cả động đến bản chất thanh tịnh căn để của tâm ta. Tự thẳm sâu tâm ta cũng như tất cả hữu tình, đều đang an trú suối nguồn bất tận của tình yêu và trí tuệ. Mục đích cuối cùng của mọi pháp tu dù thuộc Phật giáo hay không, đều cốt làm hiển lộ cái bản chất ấy, tiếp xúc với cái bản lai thanh tịnh ấy.

Khi đã phát triển tính trong sáng nơi chính mình, đức bi mẫn và tình yêu bên trong mình, ta có thể thấy sự trong sáng ấy, đức từ bi ấy phản chiếu nơi người. Nhưng khi chưa tiếp xúc được với những đức tính ấy nơi mình, ta sẽ thấy mọi người đều xấu xa, hạn cuộc. Vì bất cứ gì ta thấy bên ngoài chỉ là cái bóng của thực tại trong tâm ta chiếu ra.

Sự có mặt của bản tâm thuần tịnh không phải là vấn đề nhắm mắt tin theo hay chấp nhận một giáo điều, mà là một dữ kiện có thể thực nghiệm. Vô số người trong quá khứ đã khám phá kho tàng lớn lao ấy nơi tự tâm, kho tàng của bình an, tình yêu và tuệ giác. Bao nhiêu bậc thầy vĩ đại đã cho biết ta có thể khám phá bản chất sâu xa của chính mình để được niềm phúc lạc vô song mà sự khám phá ấy đương nhiên mang lại. Đức phật Thích Ca Mâu Ni là bậc đạo sư đầy từ mẫn như thế, và tất cả giáo lý cùng phương pháp của ngài dạy, là cốt giúp ta đạt đến cái tiềm năng tối cao ấy của con người.

Theo thuật ngữ Phật giáo, mục đích tối hậu của tiến hóa nhân loại là giác ngộ, thành Phật. Điều này thể hiện khi tất cả mê muội tham sân si và những gì che mờ tâm thức được tận trừ, và khi tất cả thiện tính trong ta hoàn toàn được khai triển. Sự thành tựu viên mãn ấy, sự tỉnh thức trọn vẹn ấy mang đặc tính là tuệ giác vô biên, lòng bi mẫn vô hạn và năng lực hay phương tiện vô cùng.

PHƯƠNG PHÁP MẬT TÔNG

Theo Kinh thừa, con đường thành tựu tuệ giác là một tiến trình tuần tự thanh lọc tâm thức khỏi những lỗi lầm và giới hạn, để thay vào đấy, phát huy những đức tính như trí tuệ, từ bi. Con đường này bao gồm việc tạo những nhân tố đặc biệt như giữ giới, phát triển khả năng tập trung và đào luyện thiền minh sát, vân vân, để tương lai sẽ đạt được sự tỉnh thức toàn vẹn. Chính vì nhấn mạnh đến việc tạo nhân tố cho một kết quả tương lai, mà phương pháp kinh thừa hay tiệm giáo đôi khi còn gọi là "nhân thừa" (nhân với nghĩa nguyên nhân) để đưa đến giác ngộ.

So với phương pháp tiệm giáo của kinh thừa, thì mật thừa là con đường tiến đến giác ngộ nhanh hơn rất nhiều. Mặc dù hành giả mật thừa cũng không xao lãng việc gieo nhân như hành giả Kinh thừa, song họ lấy hậu quả tương lai của sự tu hành làm khởi điểm tu tập. Nói cách khác, hành giả mật thừa tập nghĩ, nói và làm ngay trong hiện tại như thể họ đã là một đức phật. Vì phương pháp mãnh liệt này - đưa hậu quả toàn giác vào giây phút hiện tại, khi đang tu - mà mật tông còn được gọi là "quả thừa" đưa đến giác ngộ.

Theo mật tông, sự toàn vẹn không phải đang chờ đợi chúng ta ở một thời điểm nào trong tương lai, theo kiểu suy tư "Nếu bây giờ tôi tu hành nghiêm túc, tương lai tôi sẽ thành Phật" hay "Nếu đời này tôi có đạo đức, đời sau tôi sẽ được lên thiên đàng." Theo mật tông, thiên đàng là ngay bây giờ: chúng ta đáng lý là những vị trời ngay trong hiện tại; song chúng ta lại bị vướng bận những khái niệm hạn cuộc như đàn ông là thế này, phụ nữ là thế kia, tôi sinh ra đã là thế ấy không thể khác, vân vân. Đấy là lý do ta có những xung đột nội tâm và xung đột với người khác. Mọi xung đột này sẽ tan biến nếu ta luyện tập theo quan điểm mật tông, nghĩa là nhận chân rằng mỗi một người nam hay nữ bản chất đều tự đầy đủ, toàn vẹn. Hơn thế nữa, mỗi người nam nữ đều chứa cả hai năng lực âm dương. Thực tế là mỗi người trong chúng ta đều là một hợp thể của tất cả năng lực vũ trụ. Tất cả những gì ta cần để được toàn vẹn đều đã sẵn trong ta ngay giờ phút này, chỉ có điều là ta có khả năng nhận thức điều ấy hay không. Đấy là cái nhìn theo mật giáo.

NGUYÊN LÝ CHUYỂN HÓA

Có thể nói tất cả pháp tu mật tông đều bao hàm nguyên lý chuyển hóa. Như khoa học tân thời chứng minh, vũ trụ vật chất với muôn vàn sắc thái, từ phân tử nhỏ nhất đến tinh vân lớn nhất, chỉ là một trạng thái không ngừng chuyển hóa và tiến hóa từ một dạng năng lượng này đến dạng năng lượng khác. Chính thân thể và tâm trí chúng ta cũng là năng lượng: ta mạnh khỏe hay đau ốm, tâm trí quân bình hay mất quân bình, đều tùy thuộc sự kiện các năng lượng tâm vật lý trong ta có hòa điệu hay không. Nhờ thực hành mật tông đúng pháp, tất cả năng lượng trong ta, kể cả những năng lượng vi tế song rất mãnh liệt mà thường ta không ý thức đến, đều được xử dụng để tựu thành sự chuyển hóa quan trọng nhất trong mọi cuộc chuyển hóa, đó là từ một con người phàm tình mê muội hạn cuộc trong vỏ sò bản ngã trở thành một con người hoàn toàn tỉnh giác có lòng bi mẫn và tri kiến bao la.

Làm sao ta làm được một cuộc chuyển hóa phi thường như vậy? Tìm đâu ra những nguyên liệu cần thiết để đem lại một sự thay đổi sâu xa đến thế? Ta không cần phải kiếm đâu cho xa. Không cần phải rút năng lượng ấy từ hạt nhân nguyên tử, cũng không phải dùng phi thuyền phóng vào không gian để tìm năng lượng ấy nơi hành tinh xa xôi nào. Kỳ thực, cái năng lượng cốt cán để làm cuộc chuyển hóa sâu xa ấy là năng lượng của chính những dục vọng trong ta.

---o0o---

Nguồn: www.thuvienhoasen.org

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/08/2024(Xem: 642)
Quí vị hãy phát tâm từ bi vô lượng đối với chúng sinh, nghĩ rằng: "Thật tốt biết bao nếu tất cả chúng sinh đều thoát khỏi khổ đau và thoát cả nguyên nhân tạo khổ". Rồi gánh hết mọi vấn đề của chúng sinh về phần mình, nhất là các loại khổ đau đến từ bịnh tật, từ mối tương giao giữa người và người. Nhận lãnh mọi khổ đau cùng nguyên nhân tạo khổ, mọi mê muội ám chướng, mọi điều không ai mong cầu, gom thành một khối ô nhiễm, cho thấm hết vào vọng tâm chấp ngã, khiến vọng tâm chấp ngã bị phá hủy hoàn toàn, và rồi cái "ngã" mà vọng tâm bám vào, tưởng rằng quý giá lắm, bây giờ trở thành không [không có tự tánh]. Trụ tâm trong tánh Không càng lâu càng tốt. Quán sự nhận về như vừa nói trên, rồi quán về tánh Không. Thỉnh thoảng có thể mở tâm từ ái để hồi hướng tất cả, thân mình, sở hữu, cùng ba thời công đức của mình về con người khác, đặc biệt là cho những người ghét quý vị. Nhưng chủ yếu vẫn nên dành thời gian để quán sự nhận về.
17/04/2024(Xem: 1254)
Cư sĩ Huyền Thanh, thế danh là Nguyễn Vũ Tài, sinh ngày 01/04/1958 tại Thị xã Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Thân phụ tên là Nguyễn Vũ Nhan, nguyên quán tại làng Xối Đông, tổng Thần Lộ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Thân mẫu tên là Vũ Thị Ni, nguyên quán tại làng Lịch Diệp, tỉnh Nam Định. Thuở nhỏ Nguyễn Vũ Tài đã Quy Y với Hòa Thượng Thích Thanh Chiên, Trụ trì chùa Hải Vân ở khu Ấp Chợ, xã Tân Sơn Hòa, tỉnh Gia Định và được Thầy ban cho Pháp Danh là Huyền Thanh. Năm 1978, tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm khoa Toán Lý và đi dạy môn Toán cấp II từ năm 1979 cho đến năm 2003 thì chuyển qua làm công tác Giám Thị ở các trường Trung học Cơ sở Ngô Quyền quận Tân Bình, trường Trung học Cơ Sở Hoàng Hoa Thám quận Tân Bình, và trường Trung học Cơ Sở Nguyễn Gia Thiều quận Tân Bình cho đến khi chấm dứt công tác vào năm 2010.
25/03/2022(Xem: 6043)
Đừng quên vị bổn sư; Hãy cầu nguyện với người trong mọi lúc. Đừng tán tâm; Hãy nhìn vào tinh túy của tâm. Đừng quên cái chết; Hãy để nó thúc giục con tu tập Pháp. Đừng quên chúng sanh; Với lòng bi mẫn, hãy hồi hướng công đức cho chúng sanh, và cầu nguyện với lòng khát vọng.
02/12/2021(Xem: 19248)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
03/09/2021(Xem: 37806)
(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm) 1. TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN: Án, lam xóa ha. (3 lần) 2. TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN: Tu rị, Tu rị, Ma ha tu rị, Tu tu rị, Ta bà ha. (3 lần) 3. TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN Án, Ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần) 4. PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN: Án, Nga nga nẵng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần) 5. AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN: Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, Án, độ rô độ rô, địa vỷ ta bà ha (3 lần) Hộ pháp, Vĩ Đà thị chứng minh Thân trụ Phật tiền Tâm Tư nguyện Tưởng bằng bí chú đắc oan linh Hà chơn bất thức trì niệm Luật Thiên kinh vạn quyển vô nhất tự Nẳng mô tô tất đế, đa rị, đa rị, mạn đà, mạn đà, ta bà ha (3 lần)
01/11/2020(Xem: 18929)
1/Đệ nhất đại nguyện: quốc vô ác đạo. Đại nguyện thứ nhất: Cõi Cực-lạc không có các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy) 2/Đệ nhị đại nguyện: bất đọa ác đạo. Đại nguyện thứ hai: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không đọa vào các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 3/ Đệ tam đại nguyện: thân chơn kim sắc. Đại nguyện thứ ba: Thân của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có sắc vàng. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 4/ Đệ tứ đại nguyện: hình sắc tương đồng. Đại nguyện thứ tư: Hình sắc của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều bình đẳng, không đẹp xấu khác nhau. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 5/Đệ ngũ đại nguyện: túc mạng trí thông. Đại nguyện thứ năm: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có túc mạng thông, biết rõ các kiếp quá khứ. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)
04/03/2020(Xem: 40125)
Lễ Dâng Y Kathina & Cúng Dường Phẩm Vật chư Tăng tại Bồ Đề Đạo Tràng India, Nhân Lễ tưởng niệm ngày đức Phật (thái tử Siddartha Gautam) xuất gia, được sự trợ duyên của chư Phật tử và quí thiện hữu hảo tâm, chúng tôi đã thực hiện một buổi Dâng Y Kathina và cúng dường phẩm vật đến chư Tăng thuộc 3 truyền thống Mật tông Kim cương thừa (金剛乘, vajrayāna), truyền thống chư Tăng Nguyên Thủy các nước Theravada và chư Tăng Ni truyền thống Đại Thừa (Mahayana) tại Bồ Đề Đạo Tràng.
26/11/2019(Xem: 8942)
Giáo dục, phạm vi rộng, có nghĩa truyền thừa kinh nghiệm, hiểu biết, kiến thức chuyên môn, kiến thức tổng quát… Mỗi chuyên ngành có những đặc tính cần truyền thụ cho lớp kế thừa, đó là giáo dục chuyên môn. Trong nhà Phật, việc giáo dục chú hướng vào nhận thức bản thể, hiểu biết về thân tâm, nắm rõ luật nhân quả, cải tạo nhân cách và làm chủ cảm xúc,làm chủ tâm hành, có nghĩa hành giả cần làm chủ sanh tử trong cõi tử sanh.
28/08/2019(Xem: 7305)
Lần đầu tiên chùa Đức Viên (2440 McLaughlin Avenue, San Jose, California) hội đủ duyên lành cung thỉnh chư Tăng tu viện Namgyal (Ithaca, New York) kiến tạo một đàn tràng thiêng liêng bằng cát màu tuyệt đẹp trong hai tuần (từ ngày 12/8 đến ngày 24/8/2019). Đó là Kalachakra Mandala Thời Luân (Bánh Xe Thời Gian), biểu tượng cho vũ trụ để cầu nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc. Thời Luân là cung trời an lành, nơi trú xứ của các vị Thánh Hộ Phật, mang lại nguồn an lạc, có năng lực gia trì mạnh mẽ của chư Phật, và thanh tịnh hóa tại địa điểm khởi tâm cung thỉnh. Trong Thời Luân có 28 con thú trên lưng nở hoa sen là: 7 con heo, 7 con ngựa, 7 con voi và 7 con sư tử kéo xe chở các vị Thánh Hộ Phật.
07/08/2019(Xem: 4829)
Tỉnh Thức Rực Rỡ: Đọc Sách “Vivid Awareness”, Bài này sẽ giới thiệu và tóm lược tác phẩm “Vivid Awareness: The Mind Instructions of Khenpo Gangshar” (sẽ viết tắt là: VA) của đại sư Khenchen Thrangu, dựa vào bản Anh dịch của David Karma Choephel, ấn bản 2011, nhà xuất bản Shambhala. Sách này nói về một Thiền pháp của Kim Cang Thừa. Lý do chọn sách này vì qua đây có thể hiểu được và thâm nhập được Thiền Tông – tức là Thiền Trúc Lâm của Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com