Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

QUYỂN MỘT

26/04/201313:45(Xem: 5285)
QUYỂN MỘT


BỘMẬT TÔNG
(tập 02)

Dịch Giả : Thích Viên Đức
---o0o---

NAM MÔ ÐẠI THỪA TRANG NGHIÊM BẢO VƯƠNG KINH

HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT

(3 lần)

QUYỂN MỘT

-Xứ Trung Ấn Ðộ nước Nhã Lan Ðà Ra,
chùa Mật Lâm, Ngài Tam Tạng Tứ Tử
Sa Môn Thần Thiên Tức Tai,
phụng chiếu dịch chữ Phạn ra chữ Hán.
-Sa Môn Thích Viên Ðức dịch ra Việt văn.

Phật nói Kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương.

Như thật tôi nghe, một thời đức Thế Tôn, ở tại nước Xá Vệ, rừng cây Kỳ Ðà, vườn Cấp Cô Ðộc. Cùng với chúng đại Tỳ Khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi người và các chúng đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Danh hiệu các Ngài ấy là: Kim Cang Thủ đại Bồ Tát, Trí Kiến đại Bồ Tát, Kim Cang Quân đại Bồ Tát, Bí Mật Tạng đại Bồ Tát, Hư Không Tạng đại Bồ Tát, Nhựt Tạng đại Bồ Tát, Vô Ðộng đại Bồ Tát, Bảo Thủ đại Bồ Tát, Phổ Hiền đại Bồ Tát, Chứng Chơn Thường đại Bồ Tát, Trừ Cái Chướng đại Bồ Tát, Ðại Cần Dũng đại Bồ Tát, Dược Vương đại Bồ Tát, Quán Tự Tại đại Bồ Tát, Chấp Kim Cang đại Bồ Tát, Hải Tuệ đại Bồ Tát, Trì Pháp đại Bồ Tát, hết thảy gồm có tám mươi trăm ức Bồ Tát đều đến nhóm hội.

Lúc ấy có các chúng Thiên Tử của ba mươi hai cõi Trời đều đến nhóm hội, trời Ðại Tự Tại Thiên và trời Na La Diên làm thượng thủ; tiếp đến trời Ðế Thích Thiên Vương, Tát Hathế giới chủ Ðại Phạm Thiên Vương, Nhật Thiên, Nguyệt Thiên, Phong Thiên, Thủy Thiên, các chúng Trời như vậy thảy đều đến nhóm hội.

Lại nữa có trăm ngàn Long Vương. Gọi là: A Bát Lã Long Vương, Ê Lạ Bát Lị Long Vương, Ðể Long Nghĩ Lệ Long Vương, Chủ Ðịa Long Vương, Bách Ðầu Long Vương, Ngưu Ðầu Long Vương, Lộc Ðầu Long Vương, Nan Ðà Long Vương, Bạt Nan Ðà Long Vương, Ngư Tử Long Vương, Vô Nhiệt Não Long Vương, Ta Nghiệt Lị Noa Long Vương, các vị Long Vương như vậy hết thảy đều đến nhóm hội.

Lại có trăm ngàn Ngạn Ðạt Phạ Vương. Gọi là: Cổ Âm Ngạn Ðạt Phạ Vương, Diệu Thinh Ngạn Ðạt Phạ Vương, Thiên Tý Ngạn Ðạt Phạ Vương, Thiên Chủ Ngạn Ðạt Phạ Vương, Thân Hoan Hỷ Ngạn Ðạt Phạ Vương, Chủng Chủng Nhạc Âm Ngạn Ðạt Phạ Vương, Trang Nghiêm Ngạn Ðạt Phạ Vương, Hiện Ðồng Tử Thân Ngạn Ðạt Phạ Vương, Pháp Lạc Ngạn Ðạt Phạ Vương, như vậy hết thảy các vị Ngạn Ðạt Phạ Vương đều đến nhóm hội.

Lại trăm ngàn Khẩn Na La Vương. Gọi là: Diệu Khẩu Khẩn Na La Vương, Bảo Quang Khẩn Na La Vương, Hi Di Khẩn Na La Vương, Hoan Hỷ Khẩn Na La Vương, Luân Trang Nghiêm Khẩn Na La Vương, Châu Bảo Khẩn Na La Vương, Ðại Phúc Khẩn Na La Vương, Kiên Cố Tinh Tấn Khẩn Na La Vương, Diệu Dũng Khẩn Na La Vương, Bách Khẩu Khẩn Na La Vương, Ðại Thọ Khẩn Na La Vương, như vậy hết thảy các vị Khẩn Na La Vương đều đến nhóm hội.

Lại có trăm ngàn Trời nữ. Các vị ấy là: Tối Thượng Thiên nữ, Diệu Nghiêm Thiên nữ, Kim Ðới Thiên nữ, Trang Nghiêm Thiên nữ, Văn Trì Thiên nữ, Cam Lồ Nguyệt Thiên nữ, Thanh Tịnh Thân Thiên nữ, Bảo Quang Thiên nữ, Hoa Thân Thiên nữ, Thiên Diện Thiên nữ, Khẩu Diễn ngũ Nhạc Âm Thiên nữ, Khoái Lạc Thiên nữ, Kim Man Thiên nữ, Thanh Liên Hoa Thiên nữ, Tuyên Pháp Âm Thiên nữ, Diệu Lạc Thiên nữ, Lạc Sanh Thiên nữ, Diệu Nghiêm Tướng Thiên nữ, Nghiêm Trì Thiên nữ, Bố Thí Thiên nữ, Khiết Dĩ Thiên nữ, các Trời nữ như vậy thảy đều đến nhóm hội.

Lại có trăm ngàn Long Vương nữ. Gọi là: Diệu Nghiêm Trì Long nữ, Mẫu Thử Lân La Long nữ, Tam Kế Long nữ, Hòa Dung Long nữ, Thắng Cát Tường Long nữ, Ðiễn Nhãn Long nữ, Ðiễn Quang Long nữ, Diệu Sơn Long nữ, Bách Quyến thuộc Long nữ, Ðại Dược Long nữ, Nguyệt Quang Long nữ, Nhất Thủ Long nữ, Bách Tý Long nữ, Thọ Trì Long nữ, Vô Phiền Long nữ, Thiện Trang Nghiêm Long nữ, Bạch Vân Long nữ, Thừa Xa Long nữ, Vị Lai Long nữ, Ða Quyến Thuộc Long nữ, Hải Phúc Long nữ, Cái Diện Long nữ, Pháp Tòa Long nữ, Diệu Thủ Long nữ, Hải Thâm Long nữ, Diệu Cao Cát Tường Long nữ, các Long nữ như vậy cũng đều đến nhóm hội.

Lại có trăm ngàn Ngạn Ðạt Phạ Nữ. Các vị ấy là: Ái Diện Ngạn Ðạt Phạ nữ, Ái Thí Ngạn Ðạt Phạ Nữ, Vô Kiến Ngạn Ðạt Phạ Nữ, Diệu Cát Tường Ngạn Ðạt Phạ nữ, Kim Cang Man Ngạn Ðạt Phạ Nữ, Diệu Man Ngạn Ðạt Phạ Nữ, Thọ Lâm Ngạn Ðạt Phạ nữ, Bách Hoa Ngạn Ðạt Phạ nữ, Hoa Phu Ngạn Ðạt Phạ nữ, Bảo Man Ngạn Ðạt Phạ Nữ, Cát Tường Vương Ngạn Ðạt Phạ nữ, Cổ Âm Ngạn Ðạt Phạ nữ, Diệu Trang Nghiêm Ngạn Ðạt Phạ nữ, Phong Lễ Ngạn Ðạt Phạ nữ, Pháp Ái Ngạn Ðạt Phạ nữ, Pháp Thí Ngạn Ðạt Phạ nữ, Thanh Liên Hoa Ngạn Ðạt Phạ nữ, Bách Thủ Ngạn Ðạt Phạ nữ, Liên Hoa Cát Tường Ngạn Ðạt Phạ nữ, Ðại Liên Hoa Ngạn Ðạt Phạ nữ, Thể Thanh Tịnh Ngạn Ðạt Phạ nữ, Tự Tại Hạnh Ngạn Ðạt Phạ nữ, Thí Ðịa Ngạn Ðạt Phạ nữ, Thí Quả Ngạn Ðạt Phạ nữ, Sư Tử Hộ Ngạn Phạ nữ, Cự Mẫu Na Hoa Ngạn Ðạt Phạ Nữ, Diệu Ý Ngạn Ðạt Phạn nữ, Huệ Thí Ngạn Ðạt Phạ nữ, Ái Nhẫn Nhục Ngạn Ðạt Phạ nữ, Ðạt Phạ nữ, Nhạo Chơn Tịch Ngạn Ðạt Phạ nữ, Bảo Nha Ngạn Ðạt Phạ nữ, Ðế Thích Ngạn Ðạt Phạ nữ, Thế Chủ Quyến Thuộc Ngạn Ðạt Phạ nữ, Lộc Vương Ngạn Ðạt Phạ nữ, Biến Hóa Cát Tường Ngạn Ðạt Phạ nữ, Diễm Phong Ngạn Ðạt Phạ nữ, Tham Giải Thoát Ngạn Ðạt Phạ nữ, Sân Giải Thoát Ngạn Ðạt Phạ nữ, Si Giải Thoát Ngạn Ðạt Phạ nữ, Thiện Tri Thức Quyến Thuộc Ngạn Ðạt Phạ nữ, Bảo Tòa Ngạn Ðạt Phạ Nữ, Vãng Lai Ngạn Ðạt Phạ nữ, Hỏa Quang Ngạn Ðạt Phạ nữ, Nguyệt Quang Ngạn Ðạt Phạ nữ, Biến Chiếu Nhãn Ngạn Ðạt Phạ nữ, Kim Diệu Ngạn Ðạt Phạ nữ, Nhạo Thiện Tri Thức Ngạn Ðạt Phạ nữ, hết thảy các Ngạn Ðạt Phạ nữ như vậy cũng đều đến nhóm hội.

Lại có trăm ngàn Khẩn Na La nữ. Gọi là Nhất Ý Khẩn Na La nữ, Thâm Ý Khẩn Na La nữ, Phong Hành Khẩn Na La nữ, Thủy Hành Khẩn Na La nữ, Thừa Không Khẩn Na La nữ, Tấn Tật Khẩn Na La nữ, Tài Thí Khẩn Na La nữ, Diệu Nha Khẩn Na La nữ, Vô Ðộng Các Khẩn Na La nữ, Nhiễm Giới Khẩn Na La nữ, Xí Thạnh Quang Khẩn Na La nữ Diệu Cát Tường Khẩn Na La nữ, Bảo Khiếp Khẩn Na La nữ, Quán Tài Khẩn Na La nữ, Ðoan Nghiêm Khẩn Na La nữ, Kim Cang Diện Khẩn Na La nữ, Kim Sắc Khẩn Na La nữ Thù Diệu Trang Nghiêm, Khẩn Na La nữ, Quảng Trạch Khẩn Na La nữ, Vi Nhiễu Thiện Tri Thức Khẩn Na La nữ, Chủ Thế Khẩn Na La nữ, Hư Không Hộ Khẩn Na La nữ, Trang Nghiêm Vương Khẩn Na La nữ, Châu Kế Khẩn Na La nữ, Tổng Trì Châu Khẩn Na La nữ, Minh Nhơn Vi Nhiễu Khẩn Na La nữ, Bách Danh Khẩn Na La nữ, Thí Thọ Khẩn Na La nữ, Hộ Trì Phật Pháp Khẩn Na La nữ, Pháp Giới Hộ Khẩn Na La nữ, Thượng Trang Nghiêm Khẩn Na La nữ, Sát Na Thượng Khẩn Na La nữ, Cầu Pháp Thường Trì Khẩn Na La nữ, Thời Thường Kiến Khẩn Na La nữ, Vô Úy Khẩn Na La nữ, Thú Giải Thoát Khẩn Na La nữ, Thường Bí Mật Khẩn Na La nữ, Sử Tổng Trì Khẩn Na La nữ, Nhận Quang Nhiễm Khẩn Na La nữ, Ðịa Hành Khẩn Na La nữ, Hộ Thiên Chủ Khẩn Na La nữ, Diệu Thiên Chủ Khẩn Na La nữ, Bảo Vương Khẩn Na La nữ, Nhẫn Nhục Bộ Khẩn Na La nữ, Hành Thí Khẩn Na La nữ, Ða Trụ Xứ Khẩn Na La nữ, Trì Chiến Khí Khẩn Na La nữ, Diệu Nghiêm Khẩn Na La nữ, Diệu Ý Khẩn Na La nữ, hết thảy các vị Khẩn Na La nữ như vậy cũng đến nhóm hội.

Lại có trăm ngàn Ô Ba Sách Ca, Ô Ba Tư Ca cũng đến nhóm hội. Cho đến trăm ngàn chúng vô số tại gia, xuất gia, các ngoại đạo dị kiến khác như Ni Càn… cũng đều đến nhóm trong đại hội này.

Lúc ấy, đại A Tỳ địa ngục phát ra ánh sáng lớn rực rỡ. Ánh sáng kia chiếu khắp vườn cây Kỳ Ðà, vườn đó liền biến thành thanh tịnh. Hiện bày cột trụ thiên ma ni quý báu trang nghiêm vi diệu viên mãn. Hiện ra lầu các lớn vàng báu xen nhau trang sức. Lại hiện ra các phòng : hiện phòng vàng ròng thì cửa bằng bạc trắng, hiện phòng bạc trắng thì cửa bằng vàng ròng. Hiện vàng bạc xen nhau dùng làm các phòng, vàng bạc xen nhau lại làm các cửa. Hiện vàng bạc các báu xen nhau trang nghiêm chính điện, vàng bạc xen nhau các báu vi diệu trang nghiêm cột trụ. Hiện vàng ròng làm điện thì bạc trắng làm cột trụ, hiện bạc trắng làm điện thì vàng ròng làm cột trụ. Hoặc bạc trắng làm điện thì các diệu báu khác của cõi Trời nghiêm sức cột trụ.

Trên rừng cây Kỳ Ðà, hiện bày các thứ quý báu mầu nhiệm của cõi trời mà làm trang nghiêm. Lại hiện ra những cây Kiếp Thọ bằng vàng ròng, lá bằng bạc trắng, trên cây kia có treo các thứ trang nghiêm, trăm thứ thượng diệu y phục Kiều Xa Da vi diệu, còn có màng lưới báu trăm ngàn chơn châu chuỗi ngọc anh lạc. Lại có trăm ngàn thượng diệu mão báu, vòng tai, dây đeo châu ngọc, quý báu xen nhau mà nghiêm sức đẹp đẽ. Lại có các hoa khác nhau màu sắc rực rỡ chen nhau đua nở và có các thứ ngọa cụ thượng diệu, rương báu nhiệm mầu đựng các đồ trang sức. Các thứ cây trang nghiêm Kiếp Thọ như vậy, số kia xuất hiện có hơn trăm ngàn, vườn rừng Kỳ Ðà và các cửa nẻo lầu các ấy, dùng toàn vàng Kim Cang diệu bảo mà làm các thềm bực. Trên lầu kia có vô số thứ thú thắng mầu nhiệm lụa the, nhung gấm, chơn châu, chuỗi ngọc anh lạc, trang nghiêm như thế.

Lại có trăm ngàn ao báu thượng diệu, trong ao kia chứa đầy đủ tám công đức, có các thứ tạp hoa thơm diệu nở rộ đầy khắp như: Hoa Ưu Bát La, hoa Cự mẫu Na, hoa Bôn Noa Lị Ca, hoa Mạn Na Ra, hoa Ma Ha Mạn Na Ra, hoa Ưu Ðàm Bát La, các hoa thảy đều đầy khắp trong ao. Còn có các thứ cây hoa thượng diệu như: Cây hoa Chiêm Ba Ca, cây Ca Ra Ni, cây Ra Hoa, cây hoa Ba Tra Lạ, cây hoa Diệu Giải Thoát, cây Hương Vũ, cây hoa Diệu Ý, có các thứ cây hoa như vậy, lòng rất ưa thích. Vườn rừng cây Kỳ Ðà hiện ra tướng thật trang nghiêm hy hữu, thanh tịnh nhiệm mầu.

Lúc bấy giờ trong hội có vị Trừ Cái Chướng đại Bồ Tát từ toà ngồi mà đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, gối hữu sát đất chấp tay cung kính, chiêm ngưỡng tôn nhan của Ðức Thế Tôn mà bạch Phật rằng: bạch Thế Tôn! Con nay trong tâm có việc nghi muốn thưa hỏi đức Như Lai. Cúi mong Thế Tôn cho phép con được thưa hỏi. Bạch Thế Tôn! Nay ở đây có ánh hào quang sáng rực rỡ, ánh sáng ấy từ đâu đến hay từ nhơn duyên nào mà chiếu hiện tướng đẹp đẽ lạ lung như vậy?

Lúc ấy, đức Thế Tôn bảo Ngài Trừ Cái Chướng Bồ Tát rằng: Này thiện nam tử! Các ông hãy lắng nghe! Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói. Hào quang sáng rực kia là của Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát. Vào trong đại A Tỳ địa ngục, vì muốn cứu độ tất cả hữu tình chịu đại khổ não trong ấy. Cứu khổ nơi đó rồi, lại vào thành lớn để cứu độ cái khổ của tất cảngạ quỷ. Khi đó Ngài Trừ Cái Chướng đại Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Cõi A Tỳ đại địa ngục thành sắt bao quanh, đất lại là sắt, bốn phía thành kia không có kẻ hở, lửa dữ hừng hẩy luôn luôn thiêu đốt. Trong cõi ác thú địa ngục như vậy, có những nồi nước sôi lớn, nước sôi kia trào sùng sục; tất cả trăm ngàn Câu chi na khố đa hữu tình đều bị ném vào trong nồi nước ấy. Những nồi nước ấy như hầm nấu các thứ hạt đậu, lúc thì sôi sục nhào lên hoặc lộn xuống, hầm nấu chín nát mà không bao giờ gián đoạn. Trong A Tỳ địa ngục kia các loài hữu tình phải chịu nhiều thống khổ như thế.

Bạch Thế Tôn! Ngài Thánh Quán Tự Tại đại Bồ Tát dùng phương tiện gì mà vào được trong ấy? Ðức Thế Tôn lại bảo Trừ Cái Chướng đại Bồ Tát rằng: Này thiện nam tử! Cũng như vua Chuyển luân Thánh vương vào vườn Ma Ni Bảo cõi trời vậy. Như thế đó thiện nam tử! Ngài Thánh Quán Tự Tại đại Bồ Tát khi vào đại A Tỳ địa ngục, thân Ngài không hề có chướng ngại. Lúc đó đủ tất cả cái khổ của A Tỳ địa ngục không thể ép thân của Bồ Tát, lửa dữ hừng hẩy của địa ngục kia thảy đều dập tắt, biến thành nơi mát mẻ. Khi ấy Diêm Ma địa ngục tốt trong ngục ngạc nhiên, tâm sanh kinh sợ lạ lung chưa từng có, cớ chi nơi đây thoạt nhiên biến thành tướng lạ phi thường như thế? Khi ấy Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát vào trong ngục dập tắt lửa dữ, đập phá nồi nước sôi, lò lửa ấy biến thành ao báu mát mẻ, hoa sen trong ao lớn như bánh xe. Bấy giờ Diêm Ma ngục tốt thấy việc đó rồi đem các khí cụ trừng trị hình phạt như cung, kiếm, dùi, gậy, chỉa ba nhọn, bánh xe sắt, cung tên… đem đến cho Diêm Ma Thiên Tử, đến rồi bạch rằng: Ðại Vương chắc Ngài hay biết, chỗ nghiệp báo này vì sao thảy đều bị tận diệt? Lúc ấy Diêm Ma Thiên Tử nói rằng: Thế nào, sở nghiệp báo của ngươi bị tận diệt sao? Lại bạch Diêm Ma Thiên Tử rằng: Ðại địa ngục A Tỳ kia đã biến thành nơi mát mẻ. Khi xảy ra việc như vậy, có một người sắc tướng uy nghiêm, đầu búi tóc Thiên diệu, đội mão báu trang nghiêm, Ngài vào trong địa ngục pháp vỡ nồi nước sôi, hầm lửa trở thành ao nước mát, trong ao có hoa sen lớn như bánh xe. Lúc bấy giờ, Diêm Ma Thiên Tử suy nghĩ: Người cõi trời nào mà oai lực như thế? Hay trời Ðại Tự Tại, trời Na La Diên … đến địa ngục biến hiện không thể nghĩ bàn. Hay là Thập Ðầu La Sát Ðại Lực Oai Thần biến hóa ư! Bấy giờ Diêm Ma Thiên Tử dùng thiên nhãn xem thấy khắp các cõi trời, rồi lại xem nơi A Tỳ địa ngục, thấy Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, thấy như vậy, Diêm Ma Thiên Tử vội nhanh chân bước đến chỗ Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát. Ðến rồi gục đầu lễ sát chân Ngài, mà pháp lời thành kính dùng kệ khen rằng:

Quy mạng Liên Hoa Vương, đại bi Quán Tự Tại.

Ðại Tự Tại Cát Tường, hay thí nguyện hữu tình.

Ðủ đức đại oai thần, hàng phục cực bạo ác.

Nơi tối làm đèn sáng, thấy ấy đều không sợ.

Thị hiện trăm ngàn tay, mắt kia cũng lại vậy.

Ðầy đủ mười một mặt, trí như bốn biển lớn.

Ham ưa pháp vi diệu, vì cứu các hữu tình.

Trạnh các các thủy tộc, tối Thượng Trí như núi.

Thí báu giúp quần sanh, tối thượng đại Cát Tường.

Phước trí đủ trang nghiêm, vào nơi ngục A Tỳ.

Biến thành nơi mát mẻ, các trời đều cúng dường.

Ðảnh lễ Thí vô úy, nói sáu Ba la Mật.

Thường thắp đèn đuốc pháp, mắt pháp dụ trời sáng

Sắc tướng mầu đoan nghiêm, thân tướng như núi vàng.

Bụng mầu sâu bể pháp, tương ưng ý chơn như.

Trong miệng hiện diệu đức, chứa nhóm Tam ma địa.

Vô số trăm ngàn muôn, có vô lượng khoái lạc.

Ðoan nghiêm Tiên tối thượng, sợ hãi trong ác đạo.

Cùm trói được giải thoát, Vô úy thí tất cả.

Các quyến thuộc doanh vây, mong cầu đều như ý.

Như được ma ni báu, phá hoại Ngã quỷ thành.

Khai mở đạo tịch tịnh, cứu độ bịnh thế gian.

Như tàng cái che tràng, Nan Ðà, Bạt Nan Ðà.

HaiLong Vương thân cận, tay cầm Bất Không Tác.

Hiện vô số oai đức, hay phá kiếp ba cõi.

Kim Cang Thủ Dược Xoa, La Sát và Bộ Ða.

Vĩ Ða Noa Chỉ Nễ, và cùng Củng Bàn Noa.

A Bát Ta Ma Ra, thảy đều ôm lo sợ.

Mắt Ưu Bát La hoa, Minh Chủ Thí Vô Úy.

Tất cả thảy phiền não, các món đều giải thoát.

Vào nơi vi trần số, trăm ngàn Tam ma địa.

Khai thị các cảnh giới, tất cả trong ác đạo.

Ðiều khiến được giải thoát, thành tựu đạo Bồ đề.

Khi ấy Diêm Ma Thiên Tử, ngợi khen tán thán cúng dường đức Quán Tự Tại Bồ Tát, xong nhiễu quanh ba vòng, rồi trở về chỗ cũ.

Lúc bấy giờ Ngài Trừ Cái Chướng Bồ Tát lại bạch Ðức Phật rằng: “Thưa Thế Tôn! Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát cứu cái khổ đó rồi trở lại trong hội này ư?” Phật dạy Trừ Cái Chướng Bồ Tát rằng: “Này thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát từ đại địa ngục A Tỳ ra rồi lại trở vào thành lớn Ngã quỷ, trong đó có vô số trăm ngàn ngã quỷ miệng cháy ra lửa, đốt cháy mặt mày, hình thể khô gầy, đầu tóc bờm xờm, lông mình dựng đứng, bụng lớn như núi, cổ nhỏ như kim. Lúc ấy, Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát đến thành lớn ngã quỷ, thành kia lửa đang cháy hừng hực, bỗng nhiên nghiệp hỏa thảy đều dập tắt trở thành mát mẻ”. Bấy giờ có quỷ giữ cửa cầm gậy sắt, hình hài xấu xí, đôi mắt đỏ ngầu phát khởi tâm lành: “Tôi nay khỏi phải coi giữ nơi ác nghiệp này nữa”. Lúc ấy Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát khởi lòng đại bi, nơi mười ngón tay Ngài biến ra dòng sông trong, nơi ngón chân cũng pháp ra dòng suối nước mát, mỗi lỗ chân lông đều biến ra dòng sông lớn, cái loài ngã quỷ uống được nước ấy. Khi uống được nước rồi thì yết hầu mở lớn thân tướng đầy đủ, lại được ăn no đủ các thứ thượng vị, các ngã quỷ này được lợi ích an vui như vậy, tâm liền suy xét. Cớ sao người Nam Thiệm Bộ Châu thường được mát mẻ, yên ổn, khoái lạc? Ở trong châu ấy hoặc hay thường làm điều lành, cung kính hiếu dưỡng cha mẹ, hoặc có điều lành, cung kính hiếu dưỡng cha mẹ, hoặc có điều lành hay bố thí, vâng thờ thiện tri thức, hoặc thông minh trí huệ thường ham Ðại Thừa, hoặc có điều lành hay kiến lập pháp tràng nói pháp hòa nhã, hoặc có điều lành hay tu sửa các chốn Già lam hư hoại, hoặc có điều lành hay tu sửa tháp Phật, hoặc có điều lành hay tu sửa tháp Tướng Luân suy hoại, hoặc có điều lành hay cúng dường tôn trọng Pháp Sư, hoặc có điều lành thấy được chỗ đức Như Lai kinh hành, hoặc có điều lành hay thấy được chỗ Bích Chi Phật kinh hanh, hoặc có điều lành hay thấy được chỗ A La Hán kinh hành. Khởi lên suy nghĩ, Nam Thiệm Bộ Châu có các việc tu hành như thế. Lúc ấy trong Kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương tự nhiên phát ra tiếng vi diệu mầu nhiệm, các ngã quỷ ấy được nghe tiếng kia, chỗ chấp thân kiến tuy như núi cao, cùng các tùy hoặc phiền não, trí Kim Cang xử phá hoại không sót, liền được vãng sanh về Cực Lạc thế giới, đều làm Bồ Tát tên Tùy Ý Khẩu. Lúc ấy Quán Tự Tại đại Bồ Tát cứu khổ đó rồi, lại qua các thế giới phương khác, cứu độ các loài hữu tình.

Bấy giờ Ngài Trừ Cái Chướng lại bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Ngài quán ự tại Bồ Tát, đến nơi chốn ấy cứu độ hữu tình ư?”. Ðấng Thế Tôn dạy rằng: “Này thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát cứu độ không ngừng vô số trăm ngàn Câu chi na khố đa hữu tình, không lúc nào tạm nghỉ, lại đủ đại oai đức quá hơn Như Lai”. Trừ Cái Chướng bạch rằng: “Thưa Thế Tôn! Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát làm thế nào có sức đại oai thần như thế?”

Phật dạy: “Này thiện nam tử! Về kiếp quá khứ có một vị Phật ra đời, hiệu là Tỳ Bát Thi Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Thời ấy tôi làm con của một nhà trưởng giả, gọi là Diệu Hương Khẩu, nơi chỗ Phật ấy và đã nghe công đức oai thần của Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát. Bấy giờ Trừ Cái Chướng bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Ngài đã nghe Quán Tự Tại đại Bồ Tát, công đức oai thần như thế nào?” Ðấng Thế Tôn dạy rằng: “Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, nơi đôi mắt Ngài phát ra mặt trời, mặt trăng; nơi trán phát ra trời Ðại Tự Tại; nơi vai phát ra trời Phạm Vương; nơi tim phát ra trời Na La Diên; răng phát ra trời Ðại Biện Tài, miệng phát ra trời Phong Thiên; rún phát ra trời Ðịa Thiên; bụng phát ra trời Thủy thiên; thân của Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát phát ra các thứ như thế”. Lúc ấy Quán Tự Tại Bồ Tát bảo trời Ðại Tự Tại thiên rằng: “Ông ở đời vị lai nhằm đời mạt pháp, trong cõi hữu tình có những chúng sanh chấp trước tà kiến, đều gọi ông từ vô thỉ đến giờ đã làm đại chủ tể, sanh ra tất cả hữu tình, khi ấy chúng sanh mất đạo Bồ đề, ngu si mê hoặc mà nói lên như thế rằng:

Thân lớn như hư không, đất lớn lấy làm tòa.

Cảnh giới và hữu tình, đều từ thân ấy ra.

Như vậy thiện nam tử! Tôi ở chỗ Tỳ Bát Thi Như Lai, sau khi nghe rồi, lại có Phật ra đời, hiệu là Thức Khí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Trừ Cái Chướng! Tôi thời lấy làm Dõng Thí đại Bồ Tát, ở chỗ Phật kia nghe công đức oai thần của Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát. Trừ Cái Chướng thưa rằng: “Ðức Thế Tôn! Ngài đã nghe Quán Tự Tại đại Bồ Tát, oai thần công đức như thế nào?”. Khi ấy Phật dạy rằng: “Trong hội Thức Khí Như Lai, có tất cả Trời, Rồng, Dược Xoa, A Tô La, Nghiệt Lỗ Noa, Ma Hộ La Nga, người và chẳng phải người thảy đến nhóm hội.

Ðức Thế Tôn thời ấy, ở trong chúng khi muốn nói pháp, miệng phóng ra các sắc ánh sáng xen lẫn. Nghĩa là sắc xanh ánh sáng xanh, sắc vàng ánh sáng vàng, sắc đỏ thì ánh sáng đỏ, sắc trắng thì ánh sáng trắng, sắc hồng thì ánh sáng hồng, sắc pha đê ca ánh sáng pha đê ca, sắc vàng kim ánh sáng vàng kim sắc. Hào quang sáng kia chiếu khắp mười phương thế giới. Hào quang sáng ấy trở lại nhiễu Phật ba vòng, rồi nhập vào trong miệng Ngài.

Lúc ấy trong hội có Bảo Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát từ tòa ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, gối hữu sát đất, chấp tay cung kính mà bạch đức Thế Tôn rằng: “Nhơn duyên gì hiện ra điềm gì?”.

Phật bảo: Này thiện nam tử! Cõi Cực Lạc thế giới có Quán Tự Tại đại Bồ Tát, muốn đến nơi đây nên hiện điềm lành đó. Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát khi đến nơi này, xuất hiện ra các thứ cây hoa Kiếp Thọ, cây hoa Cự Mẫu Na, cây hoa Chiêm Ba Ca, lại hiện ra cùng các hoa khác xen nhau. Hoa báu, ao báu, cây báu, mưa rưới các thứ hoa nhiệm mầu thơm tho. Lại mưa xuống các thứ ngọc quý báu, chơn châu, lưu lu, ngọc ma ni bảo, loa bối bích ngọc, san hô … Mưa xuống những áo trời đẹp đẽ như mây tuôn.

Thời bấy giờ rừng cây Kỳ Ðà, vườn Cấp Cô Ðộc có bảy báu xuất hiện gọi là Kim Luân báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, nữ báu, chủ kho tàng báu, chủ binh báu, bảy báu như vậy đồng thời xuất hiện. Mặt đất đều biến thành vàng ròng kim sắc. Khi ấy Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, lúc rời khỏi Cực Lạc thế giới, đất chuyển động sáu lần. Bấy giờ Bảo thủ đại Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Vì nhân duyên gì xuất hiện điềm ấy?

Phật dạy: thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát muốn qua đến đây nên hiện điềm đó.

Khi ấy mưa xuống các thứ hoa thơm mầu nhiệm và hoa sen vi diệu lòng rất ưa thích. Bấy giờ Bồ Tát Quán Tự Tại tay cầm hoa sen ngàn cánh ánh sáng vàng chói đến chỗ Phật mà đảnh lễ dưới chân Ngài rồi dâng hoa sen lên cúng dường đức Thế Tôn. Hoa sen này của Phật Vô Lượng Thọ (A Di Ðà) khiến con đem đến dâng. Ðức Thế Tôn nhận hoa sen ấy rồi để qua bên trái.

Phật bảo Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát: Ông nay hiện ra thần thông công đức trang nghiêm ấy là chi? Quán Tự Tại thưa: Con vì muốn cứu độ tất cả hữu tình trong ác thú, nghĩa là tất cả ngã quỷ A Tỳ địa ngục như Hắc Thằng địa ngục, Ðẳng Hoạt địa ngục, Thiên Nhiên địa ngục, Ðường Ối địa ngục, Hoạch Than địa ngục, Hàn Băng địa ngục, trong những đại địa ngục như vậy có các chúng sanh, con đều cứu vớt ra khỏi ác thú, sẽ được chứng đắc Vô thượng Bồ đề Chánh đẳng chánh giác. Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát nói như vậy rồi, đảnh lễ nơi chân Phật, lễ xong mà đi, thoạt tiên biến mất cũng như ánh lửa xẹt vào hư không.

Lúc bấy giờ Bảo Thủ Bồ Tát bạch đức Thế Tôn: con nay có điều nghi, muốn thưa hỏi đức Như Lai, mong Ngài vì con nói ra: Quán Tự Tại Bồ Tát có phước đức gì mà nay hiện thần lực như vậy? Phật nói như Căng già hà sa sốNhư Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, lấy thiên diệu y và ca sa y, đồ ăn uống thuốc thang, ngọa cụ … cúng dường các Ðức Phật, như vậy phước đức thu được sánh bằng phước một sợi lông của Quán Tự Tại, lượng đó không khác. Này thiện nam tử! Nơi bốn châu lớn có một trăm mười hai tháng, ngày đêm thường mưa lớn, tôi có thể đếm số mỗi hạt mưa. Thiện nam tử! Phước đức của Quán Tự Tại tôi không thể nói hết số lượng. Thiện nam tử! Lại như biển lớn sâu rộng tám vạn bốn ngàn du thiện na, nước bốn biển lớn như vậy tôi có thể đếm số mỗi từng giọt. Thiện nam tử! Phước đức của Quán Tự Tại Bồ Tát đã có, tôi không thể nói hết số lượng. Thiện nam tử! Lại nhu bốn đại bộ châu, loài hữu tình bốn châu như: sư tử, voi, ngựa, beo, cọp, sói, nai, trâu, dê, tất cả nnhữntg thứ bốn chân như vậy, tôi có thể đếm số lông trong mỗi thân đã có. Thiện nam tử! Phước đức của Quán Tự Tại Bồ Tát tôi không thể nói hết số lượng. Này thiện nam tử! Như có người vừa lấy vàng báu cõi trời, tạo ra hình tượng Như Lai vô số nhiều như vi trần, một ngày đều được thành tựu các thứ cúng dường, đã được công đức phước báu kia, tôi đều đếm số được. Thiện nam tử! Phước đức của Quán Tự Tại Bồ Tát, tôi không thể nói hết số lượng. Thiện nam tử! Tất cả rừng cây tôi có thể đếm hết mỗi một số lá, còn phước đức của Quán Tự Tại Bồ Tát tôi không thể nói hết số lượng. Thiện nam tử! Lại như bốn đại châu có kẻ nam tử, người nữ nhơn, trẻ đồng nam, đồng nữ, những người như thế đều thành Thánh quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A La Hán, quả Duyên Giác Bồ đề, phước đức đã có như vậy, sánh bằng một sợi lông phước đức của Quán Tự Tại Bồ Tát lượng kia không khác.

Lúc bấy giờ Ngài Bảo Thủ Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Con từ xưa đến nay chưa từng thấy cũng chưa từng nghe chư Phật Như Lai có phước đức như thế! Thưa Thế Tôn! Ngài Quán Tự Tại còn ở địa vị Bồ Tát, cớ sao mà có phước đức như vậy? Phật dạy: Thiện nam tử! Chẳng riêng cõi này chỉ một thân tôi cho đến phương khác vô sốNhư Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đều vân tập đầy đủ một chỗ, cũng khôngthể nói hết số lượng phước đức của Quán Tự Tại Bồ Tát. Thiện nam tử! Ở thế giới này nếu có người nhớ niệm danh hiệu của Quán Tự Tại đại Bồ Tát, người đó sau này xa lìa các khổ luân hồi sanh, già, bịnh, chết, cũng như con Nga vương theo gió mà đi, mau được vãng sanh về Cực Lạc thế giới, thấy Vô Lượng Thọ Như Lai, nghe được diệu pháp, người như vậy vĩnh viễn không còn chịu khổ luân hồi, không tham sân si, không già bịnh chết, không khổ đói khát, không chịu khổ sanh thân bào thai, nương thừa pháp oai lực, hóa sanh trong hoa sen, thường ở cõi ấy hầu cận Quán Tự Tại đại Bồ Tát, cứu độ tất cả hữu tình, đều được giải thoát kiên cố nguyện mãn.

Lúc ấy Bảo Thủ Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Ngài Quán Tự Tại đây ở vào trường hợp nào? Cứu độ tất cả hữu tình đều được giải thoát kiên cố mãn nguyện?

Ðức Thế Tôn dạy rằng: Hữu tình thì vô số thường chịu sanh tử luân hồi không dứt, nên Quán Tự Tại Bồ Tát muốn cứu độ hữu tình được chứng đạo Bồ đề. Như vậy nên Ngài tùy loại mà hiện thân thuyết pháp. Nên hiện thân Phật để độ, Ngài liền hiện thân Phật mà nói pháp. Ðáng hiện thân Bồ Tát để độ, liền hiện thân Bồ Tát mà nói pháp. Nên hiện thân Duyên Giác để độ, liền hiện thân Duyên Giác mà nói pháp. Nên hiện thân Thanh Văn để độ, liền hiện thân Thanh Văn nói pháp. Nên hiện thân trời Ðại Tự Tại để độ, liền hiện thân trời Ðại Tự Tại mà nói pháp. Nên hiện thân trời Na La Diên để độ, liền hiện thân trời Na La Diên vì đó nóipháp. Nên hiện thân trời Phạm Vương để độ, liền hiện thân Phạm vương mà nói pháp. Nên hiện thân trời Ðế thích để độ, liền hiện thân Ðế Thích vì đó mà nói pháp. Nên hiện Nhựt Thiên tử để độ, liền hiện thân Nhựt Thiên tử mà nói pháp. Nên hiện thân Nguyệt Thiên tử để độ, liền hiện thân Nguyệt thiên tử để nói pháp. Nên hiện thân Hoả Thiên để độ, liền hiện thân Hoả thiên mà nói pháp. Nên hiện thân Thủy Thiên để độ, liền hiệnthân Thủy thiên vì đó nói pháp. Nên hiện thân Phong Thiên để độ, liền hiện thân Phong Thiên mà nói pháp. Nên hiện thân Long thân để độ, liền hiện thân Long thân vì đó nói pháp. Nên hiện thân Tần Na Dạ Ca để độ, liền hiện thân Tần Na Dạ Ca mà nói pháp. Nên hiện thân Dược Xoa để độ, liền hiện thân Dược Xoa nói pháp. Nên hiện thân Ða Văn Thiên Tuớng để độ, liền hiện thân Ða Văn Thiên Tướng nói pháp. Nên hiện thân Nhơn Vương để độ, liền hiện thân Nhơn Vương vì đó nói pháp. Nên hiện thân Tể Quan để độ, liền hiện thân Tể Quan nói pháp. Nên hiện thân phụ mẫu để độ, liền hiện thân phụ mẫu vì đó nói pháp.

Này thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, tùy theo các hữu tình đáng độ, liền hiện thân ra như vậy mà nói pháp. Cứu độ các hữu tình khiến được chứng địa vị Như Lai Niết Bàn.

Khi ấy Bảo Thủ Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Con chưa từng thấy cũng chưa từng nghe việc hy hữu không thể nghĩ bàn như vậy. Thưa Thế Tôn! Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, có việc không thể nghĩ bàn thật chưa từng có vậy?

Phật dạy: thiện nam tử! Hang Kim Cang nơi Nam Thiệm Bộ Châu này có vô số trăm ngàn muôn Câu chi na khố đa A Tô La an ở trong đó.

Thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát hiện thân làm A Tô La, vì A Tô La nói kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương này. Chúng A Tô La được nghe kinh ấy, đều phát lòng từ thiện mà lấy tay ôm chân Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, nghe Chánh pháp này đều được an vui. Nếu có người nghe được Vương Kinh này mà hay đọc tụng, thì người đó nếu có tội nghiệp ngũ vô gián đều được tiêu trừ. Khi mạng gần chết, có mười hai đức Như Lai đến nghinh đón mà bảo người đó rằng: Thiện nam tử! Chớ nên lo sợ, ngươi đã được nghe kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương. Chỉ rõ đường vãng sanh về cõi Cực Lạc thế giới, có bảo cái vi diệu, mão trời đẹp đẽ dây đeo châu ngọc, vòng quý đeo tai, thượng diệu y phục, hiện tướng như thế. Chết rồi quyết được vãng sanh Cực Lạc thế giới.

Bảo Thủ! Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, hiện thân A Tô La này tối thắng không thể sánh kịp, khiến A Tô La kia sẽ được địa vị Niết Bàn.

Khi ấy Bảo Thủ Bồ Tát đầu mặt sát đất, lễ nơi chân đức Thế Tôn, lễ rồi mà trở về.

---o0o---



Vi tính : Thiền Lâm Đông Phương

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/08/2024(Xem: 635)
Quí vị hãy phát tâm từ bi vô lượng đối với chúng sinh, nghĩ rằng: "Thật tốt biết bao nếu tất cả chúng sinh đều thoát khỏi khổ đau và thoát cả nguyên nhân tạo khổ". Rồi gánh hết mọi vấn đề của chúng sinh về phần mình, nhất là các loại khổ đau đến từ bịnh tật, từ mối tương giao giữa người và người. Nhận lãnh mọi khổ đau cùng nguyên nhân tạo khổ, mọi mê muội ám chướng, mọi điều không ai mong cầu, gom thành một khối ô nhiễm, cho thấm hết vào vọng tâm chấp ngã, khiến vọng tâm chấp ngã bị phá hủy hoàn toàn, và rồi cái "ngã" mà vọng tâm bám vào, tưởng rằng quý giá lắm, bây giờ trở thành không [không có tự tánh]. Trụ tâm trong tánh Không càng lâu càng tốt. Quán sự nhận về như vừa nói trên, rồi quán về tánh Không. Thỉnh thoảng có thể mở tâm từ ái để hồi hướng tất cả, thân mình, sở hữu, cùng ba thời công đức của mình về con người khác, đặc biệt là cho những người ghét quý vị. Nhưng chủ yếu vẫn nên dành thời gian để quán sự nhận về.
17/04/2024(Xem: 1247)
Cư sĩ Huyền Thanh, thế danh là Nguyễn Vũ Tài, sinh ngày 01/04/1958 tại Thị xã Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Thân phụ tên là Nguyễn Vũ Nhan, nguyên quán tại làng Xối Đông, tổng Thần Lộ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Thân mẫu tên là Vũ Thị Ni, nguyên quán tại làng Lịch Diệp, tỉnh Nam Định. Thuở nhỏ Nguyễn Vũ Tài đã Quy Y với Hòa Thượng Thích Thanh Chiên, Trụ trì chùa Hải Vân ở khu Ấp Chợ, xã Tân Sơn Hòa, tỉnh Gia Định và được Thầy ban cho Pháp Danh là Huyền Thanh. Năm 1978, tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm khoa Toán Lý và đi dạy môn Toán cấp II từ năm 1979 cho đến năm 2003 thì chuyển qua làm công tác Giám Thị ở các trường Trung học Cơ sở Ngô Quyền quận Tân Bình, trường Trung học Cơ Sở Hoàng Hoa Thám quận Tân Bình, và trường Trung học Cơ Sở Nguyễn Gia Thiều quận Tân Bình cho đến khi chấm dứt công tác vào năm 2010.
25/03/2022(Xem: 6040)
Đừng quên vị bổn sư; Hãy cầu nguyện với người trong mọi lúc. Đừng tán tâm; Hãy nhìn vào tinh túy của tâm. Đừng quên cái chết; Hãy để nó thúc giục con tu tập Pháp. Đừng quên chúng sanh; Với lòng bi mẫn, hãy hồi hướng công đức cho chúng sanh, và cầu nguyện với lòng khát vọng.
02/12/2021(Xem: 19229)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
03/09/2021(Xem: 37762)
(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm) 1. TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN: Án, lam xóa ha. (3 lần) 2. TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN: Tu rị, Tu rị, Ma ha tu rị, Tu tu rị, Ta bà ha. (3 lần) 3. TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN Án, Ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần) 4. PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN: Án, Nga nga nẵng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần) 5. AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN: Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, Án, độ rô độ rô, địa vỷ ta bà ha (3 lần) Hộ pháp, Vĩ Đà thị chứng minh Thân trụ Phật tiền Tâm Tư nguyện Tưởng bằng bí chú đắc oan linh Hà chơn bất thức trì niệm Luật Thiên kinh vạn quyển vô nhất tự Nẳng mô tô tất đế, đa rị, đa rị, mạn đà, mạn đà, ta bà ha (3 lần)
01/11/2020(Xem: 18921)
1/Đệ nhất đại nguyện: quốc vô ác đạo. Đại nguyện thứ nhất: Cõi Cực-lạc không có các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy) 2/Đệ nhị đại nguyện: bất đọa ác đạo. Đại nguyện thứ hai: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không đọa vào các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 3/ Đệ tam đại nguyện: thân chơn kim sắc. Đại nguyện thứ ba: Thân của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có sắc vàng. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 4/ Đệ tứ đại nguyện: hình sắc tương đồng. Đại nguyện thứ tư: Hình sắc của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều bình đẳng, không đẹp xấu khác nhau. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 5/Đệ ngũ đại nguyện: túc mạng trí thông. Đại nguyện thứ năm: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có túc mạng thông, biết rõ các kiếp quá khứ. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)
04/03/2020(Xem: 40120)
Lễ Dâng Y Kathina & Cúng Dường Phẩm Vật chư Tăng tại Bồ Đề Đạo Tràng India, Nhân Lễ tưởng niệm ngày đức Phật (thái tử Siddartha Gautam) xuất gia, được sự trợ duyên của chư Phật tử và quí thiện hữu hảo tâm, chúng tôi đã thực hiện một buổi Dâng Y Kathina và cúng dường phẩm vật đến chư Tăng thuộc 3 truyền thống Mật tông Kim cương thừa (金剛乘, vajrayāna), truyền thống chư Tăng Nguyên Thủy các nước Theravada và chư Tăng Ni truyền thống Đại Thừa (Mahayana) tại Bồ Đề Đạo Tràng.
26/11/2019(Xem: 8942)
Giáo dục, phạm vi rộng, có nghĩa truyền thừa kinh nghiệm, hiểu biết, kiến thức chuyên môn, kiến thức tổng quát… Mỗi chuyên ngành có những đặc tính cần truyền thụ cho lớp kế thừa, đó là giáo dục chuyên môn. Trong nhà Phật, việc giáo dục chú hướng vào nhận thức bản thể, hiểu biết về thân tâm, nắm rõ luật nhân quả, cải tạo nhân cách và làm chủ cảm xúc,làm chủ tâm hành, có nghĩa hành giả cần làm chủ sanh tử trong cõi tử sanh.
28/08/2019(Xem: 7305)
Lần đầu tiên chùa Đức Viên (2440 McLaughlin Avenue, San Jose, California) hội đủ duyên lành cung thỉnh chư Tăng tu viện Namgyal (Ithaca, New York) kiến tạo một đàn tràng thiêng liêng bằng cát màu tuyệt đẹp trong hai tuần (từ ngày 12/8 đến ngày 24/8/2019). Đó là Kalachakra Mandala Thời Luân (Bánh Xe Thời Gian), biểu tượng cho vũ trụ để cầu nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc. Thời Luân là cung trời an lành, nơi trú xứ của các vị Thánh Hộ Phật, mang lại nguồn an lạc, có năng lực gia trì mạnh mẽ của chư Phật, và thanh tịnh hóa tại địa điểm khởi tâm cung thỉnh. Trong Thời Luân có 28 con thú trên lưng nở hoa sen là: 7 con heo, 7 con ngựa, 7 con voi và 7 con sư tử kéo xe chở các vị Thánh Hộ Phật.
07/08/2019(Xem: 4828)
Tỉnh Thức Rực Rỡ: Đọc Sách “Vivid Awareness”, Bài này sẽ giới thiệu và tóm lược tác phẩm “Vivid Awareness: The Mind Instructions of Khenpo Gangshar” (sẽ viết tắt là: VA) của đại sư Khenchen Thrangu, dựa vào bản Anh dịch của David Karma Choephel, ấn bản 2011, nhà xuất bản Shambhala. Sách này nói về một Thiền pháp của Kim Cang Thừa. Lý do chọn sách này vì qua đây có thể hiểu được và thâm nhập được Thiền Tông – tức là Thiền Trúc Lâm của Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com