Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 2b

25/04/201313:26(Xem: 3249)
Phần 2b

Thiền,Ánh Bình Minh

PHƯƠNG TÂY

Nguyên Tác: Roshi Philip Kapleau
Việt dịch : Huỳnh Công Hoàng
Sàigòn 1999

---o0o---

PHẦN HAI
THỜI KỲ NHIẾP TÂM

II MÔ TẢ SỰ GIÁC NGỘ (^)

1 " SỰ HẠNH PHÚC NHƯ THẾ LÀM BẠN HIỂU SỰ BẤT HẠNH CỦA BẠN NHƯ THẾ NÀO TRƯỚC ĐÂY TRẢI QUA"(^)

LÃO SƯ kính mến, thư này được trong niềm hi vọng khuyến khích những người khác. Đặc biệt, những ai đang sống xa trung tâm thiền và phải thực hành đơn độc, những người cao niên bị trở ngại về thân xác, và những ai cảm thấy thiếu niềm tự tin. Năm năm qua, kể từ lần đầu tôi đến trung tâm vào tuổi năm mươi chín, tôi đã dự chỉ ba khóa nhiếp tâm bảy ngày ( chủ yếu vì lưng đau và chân bị tê cứng)--Nhưng khóa nhiếp tâm thứ ba- tháng 10/75-là khoá nhiếp tâm năng động kỳ diệu. Các trở ngại, đau đớn, tuổi tác, khủng hoảng vì tuyệt vọng, thậm chí cả tu tập đơn độc--bây giờ tất cả được nhìn như là trạn mưa rào ơn phước.

Mặc dù, ngay từ các buổi lể mở đầu, khoá nhiếp tâm đó đã phóng tôi vào sự luyện tập khẩn trương và cường độ tu tập tôi chưa từng biết trước đây. Chắn chắn rằng không có sự gợi ý đó là " khoá nhiếp tâm của tôi." Tôi đã dành cho thiền năm năm, đến đây là kết thúc, vì vậy có thoả thuận ngầm mới " Được, ta sẽ dành cho Thiền thêm ba năm nữa. Và rồi ta sẽ xem." Cách nào mang lại một chút ít hi vọng tức thời cho người tu tập quá tản mạn, bị lôi kéo bởi niệm tưởng? Người đọc không ngừng nghỉ? Người chắc chắn là không thể ngồi yên trên chiếu thiền? Điều duy nhất có thể nói được về sự tu tập của tôi là nó bền bỉ,trung thành bền bỉ và kiên định, bất kể vấn đề gì nảy sinh. Đôi khi, sau những khủng hoảng, tôi thề bỏ cuộc, ngưng " sự lãng phí hoàn toàn ngay tức khắc," cố gắng bỏ và nhận ra tôi không thể. Thiền tóm lấy tôi và đang lắc tôi như mèo vờn chuột. Tôi đã chống trả và cố vượt thoát, nhưng mọi việc không thành.

Giờ đây, chúng tôi đang ở trong khóa nhiếp tâm. Câu chuyện cũ không thích hợp và nên quên.

Hai ngày đầu tiên, sự tu tập của tôi phóng đi có khí thế, một phần nhờ vào sự chuẩn bị kỹ ở nhà. Đau lưng, các ý tưởng lơ đãng, nhưng tôi có thể quay lại và quay lại và rồi lại quay lại sự tập trung. Lời bình của lão sư vào ngày thứ hai nhắm chí tử vào ai lệ thuộc vào lời. Họ là những kẻ thất bại, lão sư nói. Từng là nhà văn và là kẻ cả đời sống với chữ nghĩa, tôi cảm thấy những mũi tên này cắm vào tim tôi, và khóc một cay đắng. Tôi nhớ đến những sổ ghi chép và báo chí lư giữ đã ba mươi năm, mà tôi rất hãnh diện, bám bụi nhưng không được ném bỏ đi--sự ràng buộc với qúa khứ, ràng buộc với ngã. "Tôi sẽ đốt chúng," tôi hứa," tôi sẽ tái sinh trong mỗi khoảnh khắc." Sự tập luyện của tôi đang nóng lên. Tôi được trợ giúp bởi mỗi người quanh tôi-- sự trợ giúp cá nhân đặc biệt được trao tặng không thể nào tin được, ít nhất, bởi bốn người nhiếp tâm kế cận.

Ngày thứ ba,thứ Ba "đen". Mọi sự vỡ vụn, sụp đổ. Tôi đắm mình vào nổi chán nãn đen tối nhất. Không thể tu tập. Không bao giờ có thể nữa. Chẳng thể nán thêm hơn ba mươi giây. Tôi sẽ rời khoá nhiếp tâm, lìa Thiền mãi mãi. Vì cái gì để sống? Tôi dừng lại ở ý định tự sát. Tại sao không? Tự sát. Sao lại sống? Sẽ không dự buổi độc tham. Không đủ can đảm để tới. Có ích gì? Tôi nói được gì? Tôi đã bị cháy hết rồi, chiếc hỏa tiển rời khỏi bệ phóng hai ngày…cạn kiệt, cạn kiệt. Đau khổ dâng trào sôi sục. Cuối cùng, tôi lê bước đến buổi độc tham, đứng cuối cùng trong hàng. Lão sư ôm tôi, khuyến khích tôi. Sự nhiếp tâm mất trong tôi là không thực. Tôi có thể lôi nó ra. Phải không? Vâng, tôi có thể và tôi sẽ, tôi sẽ. Dần dần mây đen vén lên, cùng lúc ấy, tu tập sống lại ở mức độ sâu hơn. Năng lượng lại tuông trào.

Ngày thứ tư và năm, mọi việc đang xảy ra. Vốn là phóng viên--người quan sát, tôi theo dõi chúng với kinh ngạc dịu dàng. Nhưng đây là bầu trờiquang minh tôi đã từng đọc đến! Ý tưởng bồng bềnh như mây, vô tội, tự do. Ô, kỳ diệu, chẳng thể tin được. Thời gian trôi qua, tôi phân tích và quan sát trạng thái mới của tôi, bám víu vào nó. Dĩ nhiên, nó mờ đi, lung linh, biến mất. Lại u ám,tảng mạn, chua xót, hoang tưởng. Quay lại trạng thái cũ. KHÔNG … KHÔNG… KHÔNG …Người đạo hữu bên phải tôi đang tu tập với sự vững chắc và sức mạnh của núi. Tôi hấp thu sức mạnh của anh ta, thậm chí hoà điệu vào hơi thở của anh ta. Được rồi. Năng lượng và sức mạnh tăng lên. Bổng nhiên người quan sát ghi nhận :núi bạc…vách sắt! Núi bạc trơn trợt như băng; tường sắt có cái cổng nặng nề được cài then chôn chặc. Tôi xô mình đẩy nó lần nữa, rồi lần nữa. Tôi dán mình vào nó KHÔNG … KHÔNG… KHÔNG … Và nó cũng biến mất và chẳng trở lại .

Tôi không biết làm gì. Tôi đang ở ngõ cụt, trong một cái hộp, không, căn phòng không cửa đi lẫn cửa sổ. Tôi phải phá ra, nhưng cách nào, cách nào , cách nào. Đâm thẳng vào bức tường, cào cấu. Tuyệt vọng, tuyệt vọng, tôi phải thử bất kỳ thứ gì, làmbất cứ cách gì. Sôi nổi, tôi ôn lại toàn bộ hướng dẫn tôi đã nghe và đọc. Tôi sẽ như đứa trẻ, ngốc nghếch. Tôi phải tin? Tôisẽtin? Tôi thật tin. Họ nói tôi là KHÔNG? Vậy tôi là KHÔNG. Nếu tôi là KHÔNG, tôi biết KHÔNG. Do vậy tôi thật biết KHÔNG. Tôi là KHÔNG, tôi biết KHÔNG. Tôi không là gì ngoài KHÔNG. Tôi là đứa trẻ ngốc nghếch, là KHÔNG, và thấy KHÔNG ở mọi nơi… và tiếp tục và tiếp tục và tiếp tục. Nổi tuyệt vọng của tôi đến rồi đi như những đợt sóng. Không có cảm giác nào của bất kỳ giải pháp nào đang đi đến. Chỉ có đấu tranh, đấu tranh vì chính sự cấp thiết. Tôi phải xuyên phá, và dù tôi không mong mõi xuyên phá, hay nghĩ tới cái gì giống như xuyên phá. Các nổ lực của tôi vẩn còn khó hiểu, với sự tản mạn … Trên giường, tôi đấu tranh để lôi KHÔNG vào giấc ngủ. Ngươi muốn ngủ ư? Tốt thôi, cứ việc … Nhưng chỉ khi KHÔNG đi kèm với ngươi. Không chắc điều này có thành công như mong ước hay không. Nhưng nó xuất hiện con đường trống trải cho KHÔNG xâm nhập vào tâm với các chừng mực sâu hơn. Bây giờ, trong và ngoài thiền đường, các tản mạn ngày càng ít dần. Tôi không còn phải đấu tranh với chúng nữa. KHÔNG sẳn sàng quay lại; nó luôn ở đó, ngay dưới váng bẩn bề mặt.

Ngày thứ sáu và bảy. Cái bụng người cười. Lấy một cái thau to để lau rửa người, tôi phải đang đứng một cách kỳ quặc, vì cái bụng buồn cười kỳ lạ đang nhìn lên tôi bằng một con mắt của nó. Dường như nó lớn gấp hai lần như tôi đã nhớ và có một nhân cách kỳ quặc đầy đủ riêng nó. Chúng tôi chào nhau và ngã lăn ra cười. Vậy mà tôi tưởng nó là" của tôi". Ngạo mạn làm sao, lố bịch làm sao! Cái mà tôi tưởng là tôi là một bó thực thể buồn cười. Sau công việc sáng thứ Sáu tôi đang nằm trên giường nghỉ ngơi, khi chính lão sư đang đứng ở đó trong hình dạng cái còi hơi nước bằng đồng to lớn, áp lực bên trong đang tăng, tăng. Van mở--đó là miệng của ông--hơi nước phun lên và

KHÔNG!

Phát ra phiá trước tiếng còi làm rung chuyển thế giới. Rồi tôi là lão sư và tiếng còi đang phát ra từ tôi, là tôi, là mọi người, mọi sự! Rào chắng bắt đầu sụp đổ; tâm đang làm việc cuồng nhiệt; những tiếng nói bí mật trở nên rõ ràng. Dĩ nhiên, dĩ nhiên! Diệu kỳ biết bao, đúnglúc biết mấy… Một hạnh phúc chất ngất xâm đang xâm chiếm tôi. Hồ nghi còn lại--chẳng phải hiểu biết này vẫn còn qúa duy lý hay sao? Nhưng hồ nghi chẳng còn đắp đập ngăn cản hạnh phúc lẫn cảm xúc biết ơn, bắt đầu chảy mạnh đến nổi gần như quá mức chịu đựng. Ngày đó và kế tiếp, ngày cuối của khóa nhiếp tâm, trải qua trong sự sửng sốt của hạnh phúc, vui thú trong mỗikhoảnh khắc tới. Nhảy nhót trong hàng thiền hành, rồi khóc vì nghĩ là tới nợ nhiều biết bao nhiêu với lão sư, Tăng đoàn, chư Tổ, lực lượng nhân từ huyền bí chuyển dời mạng sống chúng ta.

Có lẽ tác động xúc cảm mạnh mẽ của kinh nghiệm này, chỉ nông cạn và cục bộ, do chính sự vô vọng của hoàn cảnh tôi trước khi nó xãy ra: gần như hoàn toàn không có niềm tin, khô như cục xương, cằn cổi, âm u, chết cứng, bị nhốt vào chứng tật hoài nghi, không thể nào phá thoát. Và luôn luôn khao khát--kẻ đói nhất trong những hồ ma đói.

Niềm hạnh phúc diệu kỳ như thế làm bạn hiểu ra( trong rất nhiều điều khác) sự bất hạnh thật sự của bạn như thế nào trước đây trải qua. Không phải trong các tình huống của cuộc đời, nhưng trong chính bạn, cái ngã khốn khổ bồn chồn, không thỏa mãn vĩnh viễn. Vui thú này là vui thú của sự trút bỏ các gánh nặng, các gánh nặng mà bạn chẳng từng biết có nó--nó đã xâm nhập vào bạn qúa sâu--lôi anh xuống, nghiền nát anh, làm anh nặng như chì, quay chầm chậm như quay rỉ mật đường lạnh lẽo đầy đặc.

Bây giờ, lần đầu tiên tôi cảm nghiệm niềm vui đến, với tràn ngập cảm giác của lòng tin. Lòng tin của tôi giới hạn ở lượng tối thiểu, thấp nhất:Ngộ hiện hữu.Nghi lễ ở Trung tâm đã làm tôi bối rối. Tôi bị bối rối và khó chịu khi ai đó nói về lòng tin, ngay cả lão sư, và sẽ hướng ý nghĩ của tôi sang về nơi khác. "Đừng quan tâm nó," tôi tự nhủ. Giờ đây, với bước nhảy vọt vĩ đại, niềm tin trải ra xa và rộng. Nó chẳng có tí vẻ gì là niềm tin mà là cái biết rõ ràng nhất, chắc chắn nhất. Những hoạt động vô tâm của nghiệp (dĩ nhiên tôi chẳng bao giờ chấp nhận), cái khéo léo khó hiểu, dị thường của cung cách và mọi vật tự phát triển, cái mối quan hệ đan xen, cả thảy trở nên rõ ràng làm tôi choáng ngộp, vì kinh ngạc và biết ơn.

Những dòng thơ viết bởi Cơ đốc giáo thần bí hiện ra trong đầu tôi:

Tất cả rồi sẽ tốt đẹp

Và tất cả rồi sẽ tốt đẹp

Và tất cả mọi điều

Rồi sẽ tốt đẹp…

Vâng! Tôi nghĩ. Và không chỉ tất cả rồi setốt đẹp, mà tất cả tốt ngay bây giờ! Và luôn luôn đã tốt đẹp rồi, chỉ có tôi quá mù quáng để không nhận ra nó. Sự phối hợp khó tin của các tình huống may mắn đã dẫn tôi đến khoảnh khắc này, kể cả những thứ mà tôi đã xem là vận rủi đen tối nhất: lưng đau, sự cản trở của nghiệp văn, các sức mạnh của buồn chán, khó khăn gia đình, sự chậm trể được chấp nhận là hội viên của Trung tâm, những lá thư bị mất, đầu gối sưng vù không chịu co lại, di chuyển khỏi Mêhico quá xa --tất cả tạo nên mô hình thân thương, và rối ren dẫn tôi tới Thiền, đến khoảnh khắc này, ngăn cản hành động sốc nổi thiếu suy nghĩ mà tấm thân ở tuổi trung niên này chẳng thể chống đở nổi, dạy tôi kiên nhẫn, cung cấp những thất vọng và hổ thẹn ở một tốc độ tôi có thể hấp thu, đưa tôi chính xác vào con đường đúng, đối với tôi. Và tôi biết rằng cũng những kỳ diệu như vậy đang mở ra đối với mọi người.

Lối suy nghĩ này có lẽ không lạ gì đối với nhiều người đồng tu, đối với tôi đó là sự quay ngược 180 độ, nó là một cuộc cách mạng cũng như một sự thiên khải. Bây giờ, nếu những cản trở của người viết văn tồn tại với tôi--Tốt! Tôi tin nó, kính trọng nó, thậm chí sùng kính nó, vui trong nó. Một trí huệ nhân từ đang làm việc ở đây, tôi không thể hi vọng đo đạc. Kinh ngạc! Kinh ngạc!

Đang khi khóa nhiếp tâm tiến dần đến kết thúc, dường như có một lổ hổng trên đỉnh đầu và một lổ hổng khác ở ngực, như thứ hố bom còn lại. Như khối u to lớn--khối u ngã--đã bị loại bỏ thành công, để lại tô,i lần đầu tiên trong đời,tự do. Tự do! Tiếng rên rỉ" KHÔNG" ở mọi người vào đêm thứ Sáu, tôi trở nên biết rằng cái đau khổ của lòng ham muốn đã đi xa hoàn toàn. Tôi còn thiếu cái gì?

Kinh nghiệm riêng tư của tôi là hạn hẹp và nông cạn. Kẻ bạo chúa, tôi hồ nghi, không bị đánh bại một lần vĩnh viễn. Tôi cảm thấy bị lèn chặc, bị gnuyền rủa, bị xô nghiêng--nhưng vô ngã hoàn toàn. Hiểu biết này--Vâng , nó là cái vốn có. Bất kỳ nó là cái gì, nó đem theo nổi vui thuần khiết, sự hoàn thành vĩ đại nhất của đời tôi.

Năm năm đau khổ

Chấm dứt trong tiếng hát

Cúi lạy thầy

Christine

2 " TÔI BƯỚC MỘT BƯỚC VÀ VŨ TRỤ LỘN NGƯỢC RA " (^)

Lão sư mến, giờ đây đã một tuần kể từ khoá nhiếp tâm tháng Mười, công việc nghề nghiệp và gia đình thường ngày đã quay trở lại. Tuy vậy, khoá nhiếp tâm ấy đã thay đổi cả thế giới! Khi thầy nói ở buổi nhiếp tâm đang kết thúc, nó là một khóa nhiếp tâm mạnh mẽ khác thường. Con người ở Wisconsin đây nói là họ đã theo dõi khóa nhiếp tâm, thậm chí trong suốt ngay giữa các hoạt động mỗi ngày; một phụ nữ trẻ nói rằng chị thấy mình đã phảithức dậy trong đêm để toạ thiền và thời khắc trôi qua hồn nhiên.

Với tôi, nữa đầu của khoá nhiếp tâm cực kỳ khó khăn. Ôi, tâm trạng của tôi lúc ấy. Dường như khi ấy tôi phải trải qua nữa thời gian trong cơn tuyệt vọng hoàn toàn, sự chạm mặt tôi chưa từng gặp trước đây, sự thật là, trong xúc cảm sâu kín nhất, chúnh ta không làm chủ cái gì, không kiểm soát cái gì. Không ngay cả tâm và thân của chính chúng ta. Nửa thời gian còn lại trải qua trong dè bỉu Thiền:" ta chẳng bao giờ quen sợ cái chết," Tôi tự nhủ," bình thường, ta chẳng bao giờ có cảm giác vp6 vọng như thế này, khi đối mặt với thế giới không vô thường. Ta có thiền để mang ơn vì tất cả đau khổ chết tiệt này! Được, khi cái này qua đi, ta sẽ về với gia đình, và sống một cuộc sốngbình thường, như người bình thườngkhông hành thiền!"

Bên dưới mọi nuông chìu này, định lực đang xây dựng, và qua mọi trạng thái tâm tiêu cực, tôi có thể tra vấn thường xuyên. Ai sợ?Aivô vọng? Ai ,Ai,AI đang trải qua mọi chuyện này? Rồi đêm cuối cùng tới, với mọi sự trợ giúp của các trưởng lớp, và đột nhiên, hai mươi phút trước buổi độc tham cuối cùng, Tôi biết! Dường như tôi bước một bước và toàn bộ vũ trụ lộn ngược ra.

Tôi đã phải, vặn vẹo theo đúng nghĩa đen, trên ghế đợi độc tham. Tôi không chờ đợi để được tham vấn, nhưng để diển tả cái kinh ngạc hoàn toàn của tôi, cái trạng thái sửng sốt vui sướng này. Cái vẻ kỳ lạ sửng sốt đó đã tràn ngập cảm xúc khi ấy. Bây giờ tôi hiểu tại sao, và đúng là điểm này cần tập trung vào. Tôi nhận ra, bây giờ, qua tất cả năm tháng tu tập luôn luôn tồn tại, ngay cả trong những lúc niềm tin có vẻ sâu sắc nhất , một loại hoài nghi còn sót lại về khả năng của tựgiải thoát thực sự. Sâu lắng ở đó luôn có cảm giác " cuộc sống đang nắm lấy anh," và nếu cuộc sống không…, tốt, cái chết sẽ đón. Thật sựkhông có lối ra. Thậm chí, có những khi tôi cố thuyết phục bằng lý trí là có một lối ra; nhưng không, cái kinh nghiệmrằng có, lối ra này nhỏ hơn cả cái nạng (crutch) có thể, và đã, ngã nhàolần nữa và lần nữa. Vui thú biết bao để nếm trải, để kinh nghiệm thật sự, cái tự do tuyệt diệu này. Thêm nhiều "không gian" biết mấy trong vũ trụ rộng lớn này!

Có loạt hồ nghi khác hiện diện trong suốt những năm tháng vừa qua này. Tôi khởi sự hành Thiền sau một thời kỳ mất ảo tưởng thực sự về hoạt động xã hội và chính trị, và tôi hy vọng Thiền là con đường giúp tôi khuây khoả, ít nhất, con đường nhỏ, nổi đau khổ tôi nhìn thấy trong thế giới. Nhưng qua những năm này, tôi thường phiền muộn bởi những ý tưởng rằng ngồi và nhìn chăm chăm vào bức tường, có vẻ khó là cách hợp lý để làm bất cứ gì cho bất cứ ai. Cùng lúc đó, dĩ nhiên, nhận thức lớn hơn là tọa thiền làm người ta nhạy cảm hơn, có khả năng hơn để chịu đựng được trong những con đường chật hẹp, có lẽ ít đau đớn hơn. Nhưng điều này dường như còn quá ít để đối mặt với thế giới tối tăm đau khổ như thế. Do vậy, hãy tưởng tượng nổi kinh ngạc của tôi, cuối cùng, khi thoáng hiện quả thật không có trợ giúp nào vĩ đại mà chúng ta có thể ban tặng, hơn là đánh thức chân tánh của chúng ta, và hiến dâng chúng ta cho cái ngộ của chúng sanh. "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ." Ôi, lời thề! Trước khi ngay cả có ý đồ nói ra lời thề như thế, chúng sanh hoàn toàn giải thoát rốt ráo và viên mãn.

Tuy thế, không có tất cả Phật và Bồ tát, không Tăng đoàn, không có thầy, lão sư, ông già tác động lắm mồm mép, bằng cách nào chúng tôi biết được điều này? Cám ơn Thầy vì chính cuộc đời của tôi!

Cung kính đãnh lể khắp mười phương.

Don

3 " AN VUI VÔ HẠN " (^)

Sau khoá nhiếp tâm tháng Mười (lạp bát), là khoá nhiếp tâm tháng Mười Hai kỷ niệm ngày Đức Phật thành đạo), ở khoá nhiếp tâm này, niềm hi vọng mới được nảy sinh. Hi vọng này, với niềm tin không đổi đã có trong tôi, cho tôi lòng xác tín rằng sự thành công sẽ là của tôi. Giữa tháng Mười và tháng Mười Hai, vợ tôi và tôi dành thời gian của mình để chuẩn bị cho khoá nhiếp tâm này. Chúng tôi ngồi thiền nhiều ngày mỗi tuần, dự buổi thọ giới tại Trung tâm thiền Toronto, và nhận pháp danh" mà chúng tôi rất khó đọc và viết". Khi khoá nhiếp tâm đến, cả hai chúng tôi đã chuẩn bị kỹ càng.

Hai ngày đầu diễn ra không có quá nhiều chuyện bất ngờ. Nề nếp bình thường diễn ra. Vào ngày thứ ba, lão sư thăm dò bằng vài câu hỏi thử nghiệm, và tôi nhận biết được tính tự phát của các câu đáp và sự hài lòng rõ ràng của thầy. Tôi hết sức lo," Đây là khóa nhiếp tâm của tôi!" Quay lại thiền đường, tôi lao mình hoàn toàn vào công án.

Vào ngày kế tiếp sống trong cơn giận dữ không nguôi. Bị thôi dục bằng gậy, tiếng la của các trưởng lớp, sự thúc dục của lão sư, tôi cố dấn thân sâu hơn vào công án, nhưng các niệm tưởng luôn luôn phản kháng lại. Cố gắng trong thời gian tu tập và cả trong giờ ăn để trụ tâm trong công án, tâm tôi tản mạn.

Niềm hi vọng đã được nuôi dưỡng qua hai tháng giữa hai kỳ nhiếp tâm trôi tuộc đi. Những nghi ngờ cũ len vào: Tôi không bao giờ có thể làm được cái này; những người đã vượt qua công án đầu tiên ở trên bục, họ đều trẻ và có thể làm được. Hãy nhìn vào ông này,… ông ta đã tu tập chăm chỉ biết mấy, và ông ta không vượt qua công án của mình, ở đó có cơ hội nào cho tôi? Tình trạng tốt tâm bị giảm sút. Nó là vô vọng, và với điều đó, thất vọng lớn lên.

Trong thời gian ngắn ngủi, tôi rời khỏi công án và tự biện: Cái lý do tôi cảm thấy vô vọng như thế là vì khao khát KHÔNG quá nhiều. Nếu không có đòi hỏi to lớn như thế đối với KHÔNG, sẽ không có sự thối chí hay thất vọng này. Thực ra, khi ấy, thất vọng là đồng minh của tôi, cách thức và sự biểu lộ đòi hỏi của tôi. Sự thất vọng này thật sự là tiếng nói của chân tánh tôi! Mọi điều này diễn ra trong tâm như tia chớp. Nhưng trong lúc thấy được điều này, tim tôi trải ra, và ham muốn chất ngất, KHÔNG chiếm hữu tôi. Tôi khao khát KHÔNG nhiều đến nổi thân không đủ sức chứa. Và tôi mượn, đúng như thế, cái thân của tất cả những người tham gia nhiếp tâm, của trưởng lớp, của lão sư. Tôi khao khát nổi khao khát của họ. Và họ khát khao cái của tôi. Tôi trở thành khoá nhiếp tâm. Khi ai đó thét lên, họ thét lên nổi đau của tôi. Khi người khác chạy xô tới độc tham, họ tuyên bố sự cuồng nhiệt của tôi. Khi người trưởng lớp sử dụng cây gậy, và thở hào hển vì cố sức, họ thở KHÔNG cho tôi. Các nổ lực của lão sư là nổ lực của tôi. Gánh trách nhiệm khủng khiếp trở thành của tôi. Tôi không thể để khoá nhiếp tâm thất bại. Lực của toàn khoá nhiếp tâm dường như đang tập trung ở đan điền của tôi. Vai, ngực, tay, bụng đều thư giản nhưng ở đó lực rất tập trung mạnh mẽ đang vận hành.

Cuộc đấu tranh diễn ra trên phạm vi khổng lồ. Các thời kỳ vô niệm tới, nhưng sự bồn chồn qúa nhiều để đón chúng. Đúng như người ta đang thử phá xuyên qua một bức tường.Vào ngày thứ năm, tôi dậy lúc hai giờ sáng và ngồi tới bốn giờ không động đậy, hoàn toàn chú tâm vào KHÔNG , cái đau ở hai chân gia tăng, và tuy vậy, được chuyển dễ dàng vào tra vấn KHÔNG. Tôi đổ xô tới độc tham trở về với hoang mang. Lão sư đã tham vấn tôi, giúp đở tôi, nhưng khi trở về, hồ nghi về thầy nổi lên." Ông ta sắp công nhận một cách quá dể dàng, ông ta không ngộ sâu và chẳng muốn bất kỳ ai khác được vậy." Trưởng lớp đánh đập ta, làm tổn thương,"Toàn bộ công việc này củaThiền là trò đánh lừa! Lão sư Đại vân đã thừa nhận mọi việc ông làm là bán nước lấy từ sông."Chả có gì trong đó! "Tôi vật vã với cảm xúc đắm chìm của người cô đơn, bị từ bo hoàn toàn

Lời bình của lão sư sáng hôm đó làm sáng tỏ các hoài nghi của tôi hoàn toàn. Lão sư nói về trí thức ( intellect), về gã đầy tớ chưa chi đã tự xưng là thầy ra sao. Tôi bắt đầu khóc. Thầy dường như đang nói cho riêng mình tôi, đang thấy, đang thấy, đang thấy sâu trong chiều sâu của tôi.Tôi không nhớ điều thầy nói, nhưng rất đau đớn. Chắc chắn là kinh nghiệm này đã dọn đường cho cái điều sắp đến.

Tại buổi độc tham tối qua, lão sư sắp sửa lập lại cho tôi lời cảnh báo thường lệ về sự quan trọng của ngày vừa qua và đòi hỏi nổ lực to lớn. Tôi ngắt lời thầy và nói sôi nổi," Vâng, tôi biết, tôi hứa với thầy tôi sẽ, tôi sẽ thực hiện!" Và khi rời phòng độc tham, tôi quay lại nói," Tôi sẽ." Tôi đã quyết tâm với tôi ngồi trọn đêm và đắm mình một cách hồn nhiên vào KHÔNG.

Sau khi chuông kết thúc rung và lể bế mạc tối ấy cử hành, tôi trở lại toạ thiền ở thiền đường, nhưng bắt gặp sự chú tâm của tôi bị phân tán. Tôi ngồi khoảng hai mươi phút và động đậy liên tục. Vào giữa đêm tôi cảm thấy có lẽ tốt nhất là đi ngủ. Nhưng nhớ lại lời thề với lão sư và chính mình, tôi không thể làm vậy. Mặc dù, dường như ngồi như thế này không ích gì và không hiệu quả, tôi vẫn tiếp tục đấu tranh. Cuối cùng, lúc 2 giờ 30 phút sáng, tôi bỏ cuộc, vô cùng xấu hổ, đi ngủ.

Kỳ lạ là, sáng hôm sau, khi chuông báo thức vang lên, tôi chui ra khỏi túi ngủ với cảm giác chắc chắn mát mẽ lạ thường. Ngồi trên chiếu thiền, tôi thấy cái chổ ngồi đã được kiếm tìm một cách sốt sắng tối qua trở nên thanh thản vô cùng. Cuối cùng, nắm được KHÔNG. Tôi quyết định không đi tới buổi độc tham, thay vào đó, tiếp tục công việc toạ thiền.

Một trưởng lớp vổ vào vai tôi thì thào thầm" Hãy đi độc tham." Tôi miễn cưỡng đi với cảm giác phiền muộn vì bị cản trở buổi ngồi tốt như thế. Nhưng, ngồi trước lão sư, tôi bắt gặp những câu trả lời hiện ra mà không sẳn có trước đó. Buổi độc tham thành công to lớn và gieo vào tôi quyết tâm làm việc chăm chỉ hơn. Tôi đã bám chặt vào tu tập và đang hành trì một cách tinh tấn. Nhưng ở buổi độc tham vừa qua, lão sư, khi tham vấn, chỉ cho thấy là các câu trả lời của tôi còn qúa duy lý, và không có tiến bộ về những gì đã được truyền vào buổi sáng. Quay về thiền đường, tôi hoàn toàn mất can đảm, và cảm thấy tôi phải đầu hàng. Tôi hết năng lượng, và dường như, không còn ý chí. Người đàn ông trẻ bên phải tôi, tuy nhiên, đang ngồi thẳng lưng và rõ ràng đang tu tập cực kỳ chuyên tâm. Tôi nghĩ," Anh ta không bỏ cuộc, vậy tại sao ta từ bỏ?" và bằng tất cả cố gắng của ý chí, tôi tập trung tìm kiếm KHÔNG ở đan điền; cột sống tự nó làm thẳng và giử thẳng đến cuối buổi nhiếp tâm.

Thức vào lúc hai giờ sáng ngày kế tiếp, sự chú ý của tôi quay vào trạng thái nội tâm. Cái quay hướng nội này nói lên có cái ngăn trở, cái căng thẳng, phát sinh từ thiếu lòng tin, và một quyết tâm được thực hiện để có niềm tin hơn ở những khoá nhiếp tâm tới. Rồi nó được quyết định để diễn tả niềm tin này ngay bằng cách cho phép ngăn trở được mở ra. Sự mở này được kèm theo một cảm giác suy sụp và sợ hải.

Một lần lão sư khuyến khích người tham dự nhiếp tâm bằng cách nói là họ không thể rơi khỏi vũ trụ, nhớ lại điều đó tạo cho tôi can đảm cần thiết cho sự khai phóng tiếp tục. Cảm giác sụp đổ tiếp tục và được nhấn mạnh bởi tìm kiếm một nổi sợ xa xưa. Một nhận thức đến với sự giải phóng, đó là sự tự do chịu đựng, chứ không phải thoát đau khổ và nội kiến này tăng tốc tiến trình ( từ " tiến trình" được dùng ở đây, vì mong muốn một cái gì tốt hơn, dù từ này tạo ra hình bóng cái đang xãy ra ; những gì đang xãy ra đều là một " sự nhận biết". Cảm giác đang hấp hối, nảy sinh với sự chết.)

Tôi tự nhủ," Tôi đang hấp hối và nếu đúng như vậy thì để tôi quan sát cái gì sẽ xãy ra." Nỗi sợ và bối rối gia tăng cho đến khi nhận ra là tim tôi đang đập, và nhận thức loé lên rằng nếu tim đang đập thì tiến trình không phải là của sự hấp hối. Rồi tôi tự nhận ra mình trong một không gian bao la trống trải, như được thắp sáng bởi ánh trăng, với cảm giác đúng như đang ở nhà. Tôi nhận ra hoàn toàn chắc chắn tuy không quan tâm lắm về ý niệm, tôi không thể nào chết.

Tuy nhiên một nỗi lo sợ mới phát sinh, đó là nếu tôi không thể chết thì tôi chịu đựng một hình thức mất ngũ vũ trụ. Cùng với nó là mối bận tâm."Thế thì tất cả đều tồn tại, chỉ có vậy phải không?"và câu trả lời đến," Không, có đi, nói, ăn ngũ." Và nhìn thấy câu" Khi đói tôi ăn và khi mệt tôi ngũ" của Triệu Châu, có một thực tế mới. ( Người bình thường nhìn vào việc ngủ nghỉ và ăn uống của đời mình và hỏi ," Tất cả chỉ có thế thôi ư?" ," Không, có một 'cuộc sống cao hơn' , một cuộc sống bên ngoài thế giới này." Tôi hỏi" Tất cả chỉ có thế thôi ư?", và câu trả lời " Không, có một cuộc sống của sự tồn tại bình thường.") Nổi bận tâm rời khỏi tôi, và tôi còn lại đơn độc trong không gian trống rỗng bao la.

Không có cách nào mà trong đó điều kiện có thể được mô tả khác hơn là"tự nhiên". Nó không phải một " kinh nghiệm". Không có gì bên ngoài "tạo ra" kinh nghiệm, cũng không có gì bên trong, chỉ là cái toàn thể viên dung. Không có cảm giác cần thiết kiểm soát điều gì, cũng không có cảm giác theo cách nào đó bị mất tự chủ. Giải thoát hoàn toàn nhưng tự nhiên.

Tiến trình chậm chạp đi dần đến kết thúc trông giống như sắp đi ngũ, nhưng trở thành sắp thức dậy. Đồng hồ gỏ bốn giờ sáng. Toàn bộ tiến trình kéo dài hai giờ.

Vợ tôi thức dậy lúc 4:30 sáng, tôi mô tả chi tiết với cô ấy những gì đã xãy ra. Một" thực tại" của trần gian đang sẳn sàng thay thế thực tại tiến trình, những hoài nghi đang nãy sinh về thực tế, tôi có đang mơ hay không. Tôi và bạn tôi bàn cải rất lâu về vấn đề chúng tôi phải làm gì.

Tôi cảm thấy mối quan tâm gia tăng về những điều đã xãy ra đơn giản chỉ là một giấc mơ hay ma cảnh. Không có cảm giác về nội kiến hay hiểu biết thêm về công án KHÔNG. Một cảm giác lo sợ phải phô bày kinh nghiệm khác với lão sư, người chắc chắn đã trải qua dồn dập hàng ngàn kinh nghiệm như vậy. Có một sự cám dỗ dai dẳng đang khuyên lơn "Hãy bỏ nó đi, về nhà thôi." Tuy nhiên câu hỏi còn lại là:" Nó là gì? " và nằm sẳn trong đan điền của tôi là trực giác. Vợ tôi thúc tôi ở lại để gặp lão sư.

Lúc bảy giờ sáng. Tôi đến gõ cửa phòng ông. Ông hỏi lớn,"Ai đó?" tôi đáp và nói tên mình. Tôi cảm thấy ơn ớn. Ô?g mở cửa, sự tiếp đón từ bi làm mất đi những luống cuống của tôi.

Cảm thấy hơi ngốc nghếch, tôi ngồi xuống, và lắp bắp kể lại rằng tôi có trải qua một loại kinh nghiệm và cần được lão sư chứng nhận. Sau khi tôi đưa ra nét chính, ông chậm chạp thăm dò và hỏi kỷ càng cho đến khi câu chuyện trên được thuật lại đầy đủ. Quả thật, lão sư tỏ ra rất quan tâm và ông từ chối ý kiến tôi khi tôi bảo có lẽ đó là ma cảnh.

Ông hỏi tôi một số câu hỏi về công án KHÔNG. Tôi suy nghĩ về câu hỏi đầu tiên mà đưa ra và cảm thấy nó vô nghĩa. Ông thử lần nữa và hỏi câu khác. Một lần nữa câu trả lời duy nhất tôi đưa ra dựa vào lý trí. Ông thử lần thứ ba và tôi thấy sự bồn chồn khuấy động nơi tôi. Tôi đứng dậy và lùi ra xa. Câu hỏi bổng nhiên thọc sâu và một sự bùng nổ, một ngọn núi lửa tuông trào, lao vút lên từ đan điền. Tôi la," Đây là KHÔNG! KHÔNG! KHÔNG!" Tôi thét lên và cười to" KHÔNG thân yêu! Trời ơi, đây là KHÔNG! Đây là KHÔNG! KHÔNG! KHÔNG!" Cơn kịch phát cuối cùng tự xãy ra, và thầy tôi, nhìn tôi với vẻ từ bi, nói," Đúng, anh đã nhìn thấy KHÔNG, nhưng bây giờ anh phải giữ nó. Anh phải mở rộng và làm sâu những gì anh vừa có chỉ là cái bóng mờ." Tiếp theo, lão sư chỉ ra những gì tôi cần luyện trong tương lai.

CHÚ THÍCH

Tám hay chín giờ sau khi rời lão sư, tôi về đến nhà. Đêm đó trôi qua không ngủ được. An bình, hoan lạc vô hạn. Tôi kiệt sức nhưng không thể ngủ. Niềm vui của tôi quá lớn.

Suốt những ngày còn lại trong tuần và nhiều ngày sau đó tôi có dai dẳng cảm giác không bị ngăn trở, như đi trên chính đôi chân của mình, thấy bằng chính mắt của mình. Ngoại trừ thời gian biết ơn sâu sắc hướng về lão sư và các bạn đồng khoá, và vợ tôi. Tất cả đều tự nhiên dễ dàng. Niềm vui rời bỏ, yên bình rời bỏ, chỉ để lại cảm giác cởi mở tự nhiên.

Cái nổ thực sự đã xãy ra, nhưng mãnh vụn còn lại. Thói quen cũ của tâm tính, phản ứng--chúng vẫn còn đó. Nhưng chúng mất vòng kềm tỏa. Những kẻ thù cũ trổi dậy, vỡ vụn và trở thành bụi, và tên bạo chúa đó, lão vua già yếu đuối bị đốn gục, lão không cần được cho ăn nữa. Giống như một mụn bỏng được chọc ra--vẫn hơi đau nhưng qúa dễ chịu.

Việc ngồi thiền của tôi cũng thay đổi--nó trở nên sâu và trơn tru hơn, nó không còn là điều gì tách biệt.

Có lẽ những giải thích trước đây sẽ có giá trị hơn nếu nó bao gồm những chi tiết thuộc về cuộc sống nhân tôi. Người ta thường tự hỏi rằng có thể hoà nhập việc hành thiền vào cuộc sống trần thế hay không. Bản thân tôi không xem là một trường hợp ngoại lệ. Thật đáng khích lệ nếu một người có cuộc sống gia đình bận rộn, có việc làm toàn thời gian mà vẫn có thể hành thiền một cách tinh tấn

Hôn nhân của tôi là một thành công lớn và nó đã tạo ra ba đứa con ngoan.

Tôi làm ở phòng Quản lý Nhân Sự của một công ty lớn, và có thể nói tôi thành công đều đều , có lẽ sắp được thăng chức Phó Chủ Tịch trong một thời gian không xa nữa.

Tôi bắt đầu hành thiền thực sự vào năm 1966 khi tôi dự một buổi toạ thiền suốt ngày tại Canada do lão sư Bạch vân hướng dẫn. Trước đó, đời sống tinh thần của tôi rất chao đảo, đi từ lúng túng này sang lúng túng khác, không lối thoát. Tình trạng kéo dài đến năm 1964 , kiệt sức và u buồn, tôi bắt đầu tự ngồi thiền.

Chỉ sau khi đến với lão sư Bạch vân, tôi mới tìm hiểu sâu hơn về thiền. Thất không thể hình dung được niềm vui sướng biết bao của tôi không khi nghe tin có một khóa nhiếp tâm ở Rochester. Nơi đó có một thiền sư người Mỹ, Phillip Kapleau, hướng dẫn. Nhưng niềm vui đó cũng mang lại một cảm giác lấn áp trong tôi, nó đánh thức nổi sợ chết, ám ảnh tôi gần như suốt hai năm trời. Tôi bị bão hoà bởi lo âu và xơ cứng tâm lý. Tôi sợ bị đơn độc. Có một lần tôi tin chắc rằng mình sắp chết vì vậy tôi ngừng xe và bước ra ngoài với mong muốn có người chứng kiến cái chết của mình. Khi bước ra khỏi xe, cú sốc của không khí lạnh làm tôi hoàn hồn trở lại.

Bác sĩ cho tôi dùng thuốc an thần. Nhưng tôi biết nếu tuân theo lời khuyên của bác sĩ thì có khả năng phải chấm dứt tọa thiền. Dù sao, trong tôi vẫn có niềm tin rằng toạ thiền đúng lúc, tự nó trở thành cách chửa trị. Lúc này, thầy tôi, lão sư Kapleau, sách tấn tôi liên tục và dạy rõ rằng, thật ra, có cái sợ như vậy là một dịp may dẫn ta đi sâu hơn vào con đường tu luyện, quả là nó biến thành động lực. Sức mạnh quyền lực của lo âu phát sinh năng lượng lớn, và ngồi thiền trong thời gian này sẽ sâu hơn.

Công việc của tôi cũng có ích, mặc dù có một sự cám dổ liên tục bằng cách nào đó nên rút ra khỏi môi trường làm việc mà tôi đang trông cậy vào; chính những vấn đề tầm thường, vụn vặt, những tranh chấp và bất đồng lại là những thúc dục tôi tiếp bước trên con đường tu tập. Chịu đựng bẽ bàng đau khổ, cố gắng đưa vào những ý tưởng mới là những chất mài mòn cái ngã một cách mạnh mẽ. Dù cuộc đấu tranh đang dồn nén, trong sâu kín sự điều hòa giữa tu tập và cuộc sống đời thường có phần phát triển. Cùng lúc đó, tôi có được một sinh khí và năng lượng khiến tôi thực hiện trót lọt nhiều chương trình lớn, mà có lẽ sẽ không làm được nếu không có nguồn lực tích luỷ được từ việc tu thiền.

Cho đến lúc này, vợ tôi và tôi tu thiền được tám năm, mỗi sáng từ năm giờ đến bảy giờ hai mươi và mỗi tối một giờ. Mỗi tháng một lần chúng tôi có một hay hai ngày toạ thiền suốt 24 giờ liền, thường là vào những ngày cuối tuần. Chúng tôi cũng thấy rất có ích khi đọc những loại sách gây cảm hứng tu tập, vì thế, trong thực tế chúng tôi dành nhiều thời gian cho Phật giáo.

Trong một mùa hè nóng nực, tôi bị mất ngủ và kèm theo căng thẳng hành hạ, sự quấy rầy kéo dài suốt tám tháng. Thầy tôi tiếp tục thúc tôi tọa thiền. "Hãy làm việc cho đến cùng kiệt nếu anh thấy phải như thế, nhưng đừng từ bỏ việc ngồi thiền."

Chẳng bao lâu sau, chúng tôi từ bỏ việc ăn thịt. Điều này tạo ra một khó khăn mới cho tôi ở cơ quan, nó làm cho tôi có vẻ khó khăn, và hơi dở hơi, nhưng rồi bạn bè tôi chấp nhận" sự kỳ quặc" này. Tuy nhiên, điều tệ hơn là không uống rượu. Trong giới kinh doanh, hể có dịp là rượu được khui và chuyền tay nhau. Đôi khi tôi chỉ dùng bia gừng nguyên chất, và khi một ai đó nài ép tôi uống, tôi bảo tôi từng là một bợm nhậu nhưng đã được cải tạo. Thường thường tôi tránh các cuộc ăn nhậu.

Mặc dù có những khó khăn như thế, cái cảm giác về một người có hoàn cảnh công việc đã phát triển, và chính thách thức mà cuộc sống bị đặt ra bởi thiền đã tạo nên, đã là công cụ cung cấp năng lượng cần thiết để vượt qua những vấn đề nảy sinh từ những thách thức đó.

Cảm giác chung trong tôi bây giờ là trở thành một thành viên có đặc quyền về những công trình sáng tạo vĩ đại. "Tôi" thường là một người tham gia miễn cưỡng trong công việc vĩ đại này. Cái để đánh giá sự miễn cưỡng "của tôi" là biết ơn tôi. Bây giờ đây, tôi đanh hướng về lão sư, biết ơn thầy vì thầy đã đặt ra những luật lệ nghiêm khắc và tỏ lòng kính trọng với ai tuân theo kỹ luật này. Bài này được viết ra để diễn tả lòng biết ơn này, nhưng với cảm giác về sự vụng về và chán ngắt của ngôn từ. Nói khác đi, một cái chắp tay thanh tịnh là một niềm khuây khoả.

Với lòng biết ơn sâu sắc

Roger

4 "THẬT BIẾT ƠN KHI ĐƯỢC LÀM NGƯỜI." (^)

Thầy kính mến, thật không thể tin được! Chỉthức dậy vào một buổi sáng-- thật vui biết bao! Thay vì thức dậy với điều lo âu, căng thẳng, đói khát, đơn độc, đau khổ và cô lập sẳn có từ khi tôi còn nhớ, thì thức dậy chỉ với KHÔNG đồng nhất này, chỉ KHÔNG này, chỉ KHÔNG này. Ở ngay cái niệm tưởng về KHÔNG, lòng biết ơn nảy sinh, biết ơn như vậy--vì tu tập, vì thầy, vì tất cả đau đớn, thất vọng, những điều dường như tiêu cực xảy ra với tôi. Vần thơ ấy thật chính xác biết dường nào khi nói rằng muồn thưởng thức hoa mận của mùa Xuân, cần phải trải qua cái giá lạnh của mùa Đông. Người ta có cảm giác như vừa thoát ra khỏi ngục tù--đầu tiên KHÔNG tóm lấy anh và chỉ ra cho anh thấy bị cầm tù cơ cực như thế nào, và rồi thả anh ra!

Đối với tôi, thật khó mà tin rằng sự căng thẳng của thân tâm lại xãy ra trước khoá nhiếp tâm tháng Mười. Suốt sáu tháng trước, hầu như tôi không ăn gì--tôi mất hơn chục ký. Tôikhốn khổmà không có lý do rõ ràng khi cuộc sống bình thường đang hài hoà hơn trước. Dường như KHÔNG đang ăn hết tôi, và đôi khi, đúng là tôi ghét tọa thiền. Sự chống cự này quá mạnh đến nổi tôi phải buộc mình vào chiếu thiền để không chạy khỏi thiền đường. Đồng thời sự kháng cự làm tôi khốn khổ, nó mạnh đến nổi làm tôi muốn tọa thiền nhiều hơn để vượt qua nó. Một tuần trước khi khoá nhiếp tâm bắt đầu, tôi bệnh nặng và đầy chướng ngại nên dường như không thể đi đứng thoải mái. Tuy nhiên chỉ một khoảnh khắc trong sáng, một ý tưởng loé lên trong đầu tôi: Chính vì mi cương quyết vượt qua nên đây là một cơ hội hi hữu dành cho mi đó.

Ngay khi khoá nhiếp tâm bắt đầu, dù vậy, quyết tâm vẫn còn đó, nó vượt lên mọi thứ, chà xát, nghiền nát tất cả trạng thái tâm-thân, những thứ mà trước đây gây chướng ngại cho tôi. Bây giờ tôi hiểu ra rằng từng nổi sợ, từng nổi đau, từng mối nghi ngờ đều là giác tánh --một khi người ta cương quyết không lùi bước trước những chướng ngại, chúng trở thành những cái hích mạnh mẽ, đẩy người ta vọt tới phiá trước để vượt qua chúng.

Buổi độc tham đầu tiên thật là quan trọng. Nhưng khi ấy tôi không quan tâm đến chuyện thầy nghĩ sao về tôi--con người nhỏ bé này. Nó là một bản tuyên ngôn độc lập cần phải được thực hiện trước khi tôi có thể làm gì cho chính mình cái điều phải làm. Sau đó--chỉ KHÔNG, và KHÔNG, và KHÔNG. Tôi nhớ quá ít về tuần lễ này--chỉ có KHÔNG thôi. Đến giữa khoá nhiếp tâm, cơ thể ở trong tình trạng kiệt sức, những ý tưởng nhượng bộ và đầu hàng nảy sinh; tương tự như tự sát, những ý tưởng xúi dục tôi chạy-khỏi-thiền đường. Nhưng không phải lúc này. Không có cách nào, lão sư ơi, đúng là không có cách nào, tôi có thể quay lại cuộc sống căng thẳng mà tôi đã tạo ra trước đây. Phải có một cái gì đó sinh ra và tôi phải làm điều đó. Trong ngày thứ sáu, tôi hiểu ra rằng tôi chưa bao giờ thật sự nổ lực vượt qua KHÔNG. Trên nó, dưới nó, quanh nó, ở xa nó--nhưng chưa hề thật sự đối mặt với nó, đâm thẳng vào nó. Ngay lúc này cái KHÔNG khổng lồ lớn lên trước mắt tôi, chận đường, bít lối không chừa cho tôi mộ lối thoát.

Khi thầy bảo tôi có thể làm việc với những công án kế tiếp, mọi thứ quá đơn giản, qúa rõ, quá tự nhiên, quá thực tế đến nổi dường như không có gì xãy ra. Chạy nhanh xuống lầu, tôi không biết tôi đang chạy vào một thế giới hoàn toàn mới--một thế giới mà trong đó sự đối kháng chống cự lại thiền hoàn toàn biến mất. Và tôi nhận ra chính mình muốn tọa thiền như người ta uống nước khi khát, muốn tọa thiền nhiều, nhiều hơn ; không vì bất cứ lý do gì, không vì mục tiêu này, đã lởn vởn trong đầu tôi quá lâu, nhưng chỉ bởi một thế giới, nơi mọi thứ tôi từng nghe nói đến về tu thiền là có thực. Phải chi người ta chỉ việc tin thầy khi thầy giảng giải--không kể đến chư Phật, chư Tổ. Dù mọi thứ thầy nói đều đúng nhưng không có cách nào làm cho người khác cảm nhận như thực--mỗi người phải tìm cho chính mình. Kỳ diệu thay chúng ta ai cũng có thể! Thế giới này--ai đã từng tin rằng mọi thứ có thể quá Đúng như vậy? Tôi hãy còn nhớ tôi cảm thấy quá sợ bởi thứ tôi thấy như nằm ngoài "tôi"--gây lo âu quá đổi liên tục, liên tục. Bây giờ mọi thứ đã khác theo cách không thể diễn tả được. Một cảm giác nảy sinh khiiến tôi muốn gom mọi thứ vào tay tôi, ôm lấy thế giới vào lòng--nhưng không cần làm thế. Nó đã được làm rồi, nó không thể khác đi!

Mới đây một người bạn trước đây tu thiền bảo với tôi rằng cô cảm thấy là năm năm qua mối quan tâm trong cuộc đời cô đó là tọa thiền, nhưng bây giờ là vì sức khoẻ. Khi nghe lời này, lòng tôi chùng xuống--KHÔNG là bác sĩ tâm thần tốt nhất bất cứ ai cũng có thể yêu cầu vị bác sĩ này chữa trị! Làm việc với KHÔNG, người ta nhìn thấy mọi thứ về cái tôi tâm lý bé nhỏ của mình mà người ta cần thấy--nhưng nó cũng cho ta cái nhìn suốt cái tôi đến chân tánh của mình. Có ai đã từng mua bán niềm vui, sự vững chãi, mà cái bóng mờ nhất của cái KHÔNG tạo ra để lấy cái bóng gọi là sức khoẻ tình cảm?

Một người nhìn thấy những kiểu thói quen chốc lát bị nổ tung rồi hồi sinh trở lại. Một người nhận biết cần phải làm việc theo một cách hoàn toàn mới. Tôi qúa quen thúc đẩy bản thân đi tời cho dù không có gì để thúc đẩy, cái thúc đẩy vẫn tiến đều. Tôi cảm thấy nhu cầu cần được độc tham thường xuyên, ước gì tôi có thể đến dự khóa nhiếp tâm vào ngày mai. Tôi cảm thấy như tôi không biết làm thế nào để bước vào cái thế giới hoàn toàn mới mẽ này.

Và về phần thầy, thưa lão sư, tôi nhớ có nghe điều gì ở đâu đó về chuyện lột vỏ quả vải. Đúng là Thầy cho tôi ăn, cho tôi ăn--mỗi bậc của lối đi--bằng sự trung thực của chính thầy và bằng việc nói lên chân lý. Chắp tay, chắp tay, chắp tay vái . Không có cách làm khác hơn là tiếp tục tiến tới và tiến tới. Bây giờ, cuối cùng tôi có thể thật sự bắt đầu công việc. Vô cùng biết ơn vì lần đầu tiên trong đời, tôi biết ơn và vui sướng được làm một con người sống trong thế giới này.

Cuối lạy thầy.

Pamela

5 "ĐỘI KHI TÔI NGHĨ KINH NGHIỆM TÌNH DỤC THẬT HƠN KIẾN TÁNH--VỚI LỜI ĐÁP CỦA LÃO SƯ(^)

Thầy thân yêu, đã lâu không gặp thầy, do đó tôi nghĩ đến việc viết thư này. Bổng nhiên tôi có ấn tượng, dù tôi là học trò của thầy trong một thời gian, thầy thật sự không biết nhiều về tôi, vì vậy để tôi kể đôi điều về tôi.

Tôi sinh ra ở Chicago năm 1949. Tôi có một người anh trai, lớn hơn tôi một tuổi, nhưng chúng tôi không hề hợp tính nhau. Tôi tốt nghiệp đại học với bằng cử nhân sư phạm và hiện là giáo viên tiểu học.

Tôi cảm thấy tôi chịu đựng quá nhiều đau khổ trong cuộc sống và sự đau khổ này dẫn tôi đến với Thiền. Tôi từng có nhiều tà kiến, chẳng hạn, như thế nào là ngộ và tôi tìm ngộ như phương cách xoa dịu nổi khổ này. Tôi chỉ làm việc với công án KHÔNG khoảng hai tháng trước khi đến với sự tỉnh thức. Suốt sáu tháng đầu tôi ngây ngất như xuất thân và ở khoá nhiếp tâm bốn ngày mà tôi tham dự , trạng thái đó lên tới tột đỉnh. Tôi dần dần hiểu ra cái ngộ cạn cợt này không là trả giải đáp cho nổi đau của cuộc đời. Tôi sẽ luôn luôn toạ thiền, nhưng tôi phải biết cái gì nằm ở đàng sau một người đã có chứng ngộ sâu hơn. Tôi nhận ra việc tham gia công án rất có giá trị, nhưng tôi cũng biết một người không tham công án cũng có thể thoát khỏi nổi đau cuộc sống như người có tham công án vậy.

Tôi là một con người hãy có nhiều tham dục, hi vọng, và tình cảm. Lời bình của thầy về công án " Nhảy qua đỉnh của cây sào cao Ba mươi trượng" rất có ích đối với tôi. Vì trong đó, thầy đề cập đến một người khi giác ngộ sâu không còn tham dục, hi vọng, hay tham vọng, vì người ấy hoàn toàn thỏa mãn với đời mình, dù nó tốt hay xấu, an nhiên đón nhận niềm vui và nổi buồn cuộc đời trong sự bình yên trầm lặng. Tôi hiểu ra là lúc đó phải chi tôi có thể chấp nhận cuộc sống với những gì nó có và ngừng ôm ấp những hi vọng hão huyền, những khao khát.v.v…cuộc đời tôi sẽ bình yên hơn. Sau khi nghe thầy thuyết pháp, tôi cần mẫn thử áp dụng khái niệm đó vào cuộc sống bình thường của mình. Nó giống như một công án mà tôi giải quyết. Nó giúp ích rất nhiều và tôi lấy làm ngạc nhiên khi thấy mình có thể làm cho nó hoạt động bằng sự tư duy một cách có ý thức về nó. Trước đây tôi cho rằng tham một chuổi công án là vô ích, vì người ta phải cần mẫn suy nghĩ về chúng và những bài học có liên quan tới những công án để rút tiả những lợi ích và điều này hoàn toàn không tự nhiên chút nào.

Tôi muốn ngộ vì tôi muốn biết ý nghĩa cuộc đời. Tôi phải nhìn nhận là tôi vẫn chưa biết. Đôi khi cuộc sống này dường như vô tận. Cho dù tôi đã thoát được sự ràng buộc của thân trong một chừng mực nào đó nhưng tôi không thể chịu đựng nổi cái ý tưởng mình đang gìa đi.

Chỉ có một kinh nghiệm đã ảnh hưởng sâu sắc đến tôi như kiến tánh. Đó là kinh nghiệm tình dục đầu tiên của tôi ở tuổi 22. Đôi khi tôi trở nên bối rối vì tôi bắt đầu nghĩ rằng kinh nghiệm tình dục thật hơn đối với tôi, và quan trọng hơn kinh nghirệm kiến tánh. Tôi biết cuối cùng rồi tôi cũng sẽ khám phá ra là điều này không đúng, nhưng khao khát xác thịt vẫn nắm chặc tôi như vậy, đến nổi tôi không thể làm gì hơn so sánh kinh nghiệm tình dục với giác ngộ và nghĩ là kinh nghiệm tình dục biểu lộ chân lý lớn hơn giác ngộ. Chắc chắn thầy nghĩ là tôi đang mất niềm tin vào Pháp và tôi sẽ lạc đường trong việc theo đuổi các lạc thú trần gian. Tôi đầy ấp những câu hỏi phải được trả lời, cho dù tôi biết là có lúc tôi sẽ tìm ra những lời giải đáp.Làm sao tôi có thể diễn tả lòng biết ơn của tôi? Bởi những điều tôi nói không đủ sức phô diễn trọn vẹn những cảm nhận của tôi. Tôi biết thầy không yêu cầu gì ở học viên ngoại trừ sự giác ngộ trọn vẹn và tôi sẽ tiếp tục hành thiền hàng ngày trong đời tôi.

Chân thành tạ ơn thầy

Joan.

THƯ ĐÁP

Joan thân mến, cám ơn cô đã viết cho tôi. Tôi luôn mừng khi nghe tin học trò mình, đặc biệt là những người ở xa ít có dịp đến Trung tâm.

Cô nói về nổi khổ, Joan. Thuở nọ có một người đàn bà đau khổ đến điên loạn vì cái chết của đứa con sơ sanh của mình đến gặp Đức Phật. Đặt đứa bé dưới chân ngài, bà cầu xin Phật khôi phục sự sống cho nó. Sau khi nhẫn nại lắng nghe, Phật bảo bà đi vào thành, xin cho được một hột cải từ một gia đình chưa từng có người quá cố. Người phụ nữ ấy lặn lội đến từng nhà trong toàn thành phố nhưng không tìm ra được gia đình nào mà không có người chết. Nhận thức rằng, cái chết không chừa một ai, cuối cùng bà chấp nhận số phận của con mình.

Trong cuộc đời này có ai mà không đau khổ? Chính nổi đau và ý muốn vượt khổ mang người đến với tôn giáo, phải không?

Dù học trò tôi đã nghe đi nghe lại rằng ngộ nông chỉ là một thoáng nhìn vào chân tánh của vạn vật. Tuy nhiên, họ thấy khó chấp nhận điều này. Trước hết kinh nghiệm kiến tánh có thể được so sánh với ánh sáng của cây đèn cầy trong hang động mênh mông; bóng tối hoàn toàn không còn ưu thế, nhưng ánh sáng vẫn còn yếu ớt. Đào sâu ngộ thì cũng giống như đốt ngày càng nhiều nến hơn, vì vậy làm rõ từng chi tiết của hang động.

Trạng thái hiện nay của cô không phải không giống một con mèo con vừa mở mắt chào đời, nó không còn bị nhận chìm trong bóng tối nhưng vẫn chưa có thể tự bảo vệ chính nó. Cũng giống như chú mèo con vẫn cần đến mẹ, cô phải tiếp xúc với thầy nhiều hơn. Nhưng ít ra bây giờ cô biết chính từ kinh nghiệm mình là ngộ không quét người ta vào hạnh phúc vô tận và sự tu tập của cô có thể giúp cô thoát khỏi mê lầm thông thường này. Mặc dù vậy, phải thừa nhận rằng sự kiến tánh của cô, dù khiêm tốn, đang giải thoát cô theo một chiều hướng căn bản. Cô có nhớ cô không, trước đây cô rụt rè, e thẹn, và bây giờ bổng nhiên cô đến trước tôi như một chiến binh? Đúng là một số ma cảnh có thể khai phóng một số nguồn năng lượng nào đó, nhưng điều xảy ra với cô không phải là ma cảnh. Cô có nhớ cô đã tự tin và bén nhạy như thế nào khi trả lời những câu hỏi kiểm tra của tôi hay không? Cô nói là trạng thái xuất thần và năng lượng cao kéo dài sáu tháng--quả là một thời gian dài bất thường. Điều cô nói cho thấy là cô đã kiến tánh sâu hơn cô tưởng, và tâm nguyện của cô sâu. Vì nếu không cô sẽ không quá thất vọng với sự đột phá lần đầu tiên này.

Chắc chắn phiá trước cô có một giác ngộ rộng rãi và rõ ràng mà cô khó hình dung ra được. Cô có thể tự mình làm điều đó với điều kiện phải kiên trì, can đảm và quyết tâm. Ở một khiá cạnh nào đó, thư của cô nhắc tôi nhớ đến trường hợp Yaeko trong cuốn Ba trụ thiền. Cô có nhớ cô ta đã mô tả niềm vui và xúc động như một "trạng thái điên loạn" như thế nào không? Càng ngộ cô ấy càng tiếp tục đào sâu, cô cũng có thể làm thế.

Nhiều tham muốn và hi vọng mà cô nói là chúng bám theo dai dẳng chỉ là ảo tưởng. Một ngày nào đó cô sẽ nhận ra điều này. Một vị Phật giác ngộ viên mãn, hoàn toàn thoát khỏi tất cả tham dục , còn chúng ta, những con người nhỏ bé hơn, có những ước muốn để đấu tranh. Nhưng hãy nhớ rằng có những ước muốn thấp hèn, có những ước muốn cao thượng. Cái ước muốn biến đổi cuộc đời nhân cách của một người trở nên cao quí, giác ngộ trọn vẹn để cứu độ chúng sinh--đây là ước muốn cao cả nhất. Những bậc thầy của tôi trước đây nói rằng điều khác nhau giữa một vị Bồ tát và Phật là Bồ tát vẫn còn chấp vào lòng mong muốn từ bi giải thoát chúng sanh khỏi khổ đau, trong khi Phật không còn nghĩ đến giải thoát hay không giải thoát; Ngài cứu độ chúng sinh tự nhiên như ngài cần phải thở vậy.

Tình cảm, cô nói là cũng lưu lại lâu với cô. Và tại sao không? Cô không cần biện giải về chúng. Cô không từng nghe tôi nói, khi toạ thiền thường xuyên nó hoà tan những ý niệm trừu tượng như hi vọng, hối tiếc và mong đợi vào con đường của nó, trong thực hành thiền không có cố gắng đè nén tình cảm sao? Khi một thiền sư khóc công khai ở đám tang của một đệ tử thân thương, một nhà sư trẻ trông thấy, bèn hỏi," Tôi nghĩ rằng thầy đã vượt qua những điều này, bạch sư." " Lúc này ta không khóc," sư đáp" thì ta sẽ khóc lúc nào?" tình cảm chân thật là đủ; hi vọng hay mong muốn " đầu độc chân lý bằng điều phi chân lý."

Nhận xét của cô về bài thuyết pháp của tôi "Nhảy qua đỉnh của cây sào ba mươi trượng" cho thấy cô hiểu lầm một điều hết sức quan trọng. Đối với người ngộ thì không có hi vọng, mong ước hay mong muốn, không phải vì người ấy thoả mãn hoàn toàn với cuộc sống, cho dù tốt hay xấu. Thỏa mãn hay không thỏa mãn--vấn vương vào những ngôn từ như thế là tự đặt mình vào gọng kềm của lý trí, hãy trôi với hiện nghiệp theo Phật tánh của cô và cuộc đời sẽ trôi cùng cô và thông qua cô. Hãy suy nghĩ kỹ về điều này.

Người đã ngộ không cưỡng lại cũng không né tránh những điều nằm phiá trước. Mọi thứ tuỳ duyên cớ và tuỳ thời. Khi cần hành động thì hành động. Khi đã dứt khoát hành động thì không có gì là thừa cả, tưởng chừng như người ấy không tạo tác gì cả.

Cô nói," Đôi khi cuộc sống dường như vô tận. Cho dù tôi cách thoát khỏi sự ràn buộc của thân trong một chừng mực nào đó, nhưng tôi không thể chịu đựng được nổi cái ý tưởng mình đang già đi." Cuộc sống dường như vô tận chỉ vì cô công nhận một điểm cuối, một cái đích. Cô phải tự thoát khỏi sự bó buộc của thời gian. Chính cô là thời gian--thân cô, tâm cô, những đối tượng quanh cô. Lao vào dòng sông mà bơi thay vì đứng trên bờ nhìn theo dòng chảy. Suy nghĩ lo toan về tuổi gìa đi phát sinh từ mối bận tâm thương yêu tấm thân. Từ việc tu luyện thiền, cô đã học được những gì mà lại bàn đến vấn đề nhị nguyên "gìa " hay "trẻ"?

Theo tục đế mà nói, tuổi của chính tôi xấp xỉ thất tuần nhưng tôi không nghĩ là mình đã già. Chỉ có người cho mình còn trẻ mới có thể nói," ông ấy già." Để đưa ra một phán đoán như vậy, người đó phải đứng tách rời khỏi tôi. Và như vậy, anh ta không bao giờ biết được tuổi thật của trái tim tôi. Nhưng nếu chúng tôi ôm nhau thắm thiết, ở thời điểm đó hai người nhập một trong vô niệm, thời "người già" ở đâu và "người trẻ" ở đâu? Ai còn nói, "anh ấy già, tôi trẻ."?

Theo lời cô kể, kinh nghiệm duy nhất có ảnh hưởng sâu sắc như thể kiến tánh đó là kinh nghiệm tình dục đầu tiên của cô. Vâng, tình dục. Giác ngộ thiền, cô biết đấy, được mô tả như một sự khoái lạc đến cực độ của vũ trụ. Tuy nhiên theo nghĩa hẹp, có thể so sánh ngộ với khoái lạc thể xác. Cảm nhận cùng chung niềm vui vút cao với người ta yêu trong cái ôm ấp ái ân mặn nồng là sự rung chuyển của cả tâm hồn, chắc chắn, nhưng điều đó vẫn bị giới hạn và lôi kéo bởi một con người đă? biệt. Tình yêu vũ trụ hay phổ quát, trái lại, tuôn trào tự nhiên tới mọi sinh vật, lớn, nhỏ, và được tiếp liệu không bởi tình yêu xác thịt mà bởi sự trực nhận về tánh bất khả phân chia của toàn bộ cuộc sống. Khi người ta yêu theo cách này, không có sự quyến luyến và không có sự mong đợi đáp đền. Tình yêu mênh mông bao la như vậy không đơn độc, không đứng tách rời, với người mình yêu, mà bằng cách bỏ đi cái tôi của người đó và ôm lấy tất cả cái tôi khi yêu.

Vào giai đoạn luyện tập này của cô, kinh nghiệm tình dục có lẽ dường như thật hơn sự kiến tánh của cô, bởi chính bản chất của nó cũng cho gì để mà giữ lại. Chính cái "không là gì" (no-thingness) này của ngộ đã chống lại tất cả cố gắng cột nó lại như những kinh nghiệm khác, cho dù là kỳ diệu. Cô biết đó, ngộ không phải là một kinh nghiệm, không có một loại ngộ chống lại những cái khác. Kinh nghiệm tình dục, dù thật theo ý nghĩa là một sư cảm nhận quá ư mạnh mẽ và ngắn ngủi như mọi kinh nghiệm. Khi gặp người mà ta cảm thấy có sự mạnh mẽ và cảm thông lẫn nhau, điều đó dễ bị bị đánh lừa bởi sự tràn dâng tình cảm đột ngột theo sau và lẫn lộn nó với điểm đích cuối cùng của ta. Nếu cô dừng lại với niềm vui tình ái hay nghệ thuật hay âm nhạc, chẳng hạn, thì sự tiến bộ của cô đến toàn giác sẽ bị chướng ngại và như vậy điều tốt hơn sẽ cản trở điều tốt nhất.

Chính cái tâm phân biệt đã nuôi dưỡng những khái niệm còn lại như "muốn biết ý nghĩa của cuộc đời." Nếu cô bị thu hút hoàn toàn vào những gì cô làm ở từng khoảnh khắc, còn chổ nào nữa để cho những tự hỏi về ý nghĩa của nó? Bí mật của cuộc đời biểu lộ qua việc sống với nó, chứ không phải suy nghĩ về nó.

Thật hài lòng được biết là cô nhận ra tầm quan trọng của tọa thiền sau khi kiến tánh và tiếp tục ngồi đều đặn. Vì như thiền sư Đạo nguyên nói," Không có sự khởi đầu với tu tập và kết thúc bằng ngộ. Tu tập là ngộ và ngộ là tu tập."

Chừng nào mà cô còn có những gì để hỏi, như cô nói, câu trả lời sẽ đến.

Thân ái.

P. Kapleau.

6" MỖI NGÀY KHO TÀNG CUỘC SỐNG THU ĐƯỢC SỰ LỘNG LẪY VÀ ĐẸP ĐẼ. (^)

1

Lão sư thân yêu, kể từ khoá nhiếp tâm ấy, có một vũ công xuất hiện nhảy múa trên các đường phố ở Rochester. Tôi vẫn không tin những gì xảy ra là thật, mà chỉ là một giấc mơ hay tưởng tượng thoáng qua. Tại sao khi chúng ta đến cái mà ta nổ lực nhiệt tình tìm kiếm trong nhiều năm, nhiều đời, chúng ta lại bị choáng ngợp và ngạc nhiên vui mừng quá đổi? Cũng khó mà chấp nhận rằng những giải đáp về sinh, tử, và thực tại, chỉ được tìm thấy ngay trongcuộc sống, ngay trong cái chết và ngay trong thực tại, vì chúng ta không thể nào tìm thấy những giải đáp ấy trong chốn vô minh hay những pháp tu tập mù mờ. Hỏi và đáp không phải là hai. Dù tôi không biết những kinh nghiệm của tôi quan hệ với kiến tánh như thế nào, cái ngộ của tôi thật như buổi sáng thức dậy từ một giấc mơ vô nghĩa và như hất nước lạnh vào mặt. Ta cười khi nhớ lại những điệu bộ ngộ nghỉnh mà ta mới trải qua trong giấc mơ, rồi hít một hơi thật sâu và đi làm công việc của mình.

Có cách nào khác hơn là tự nhủ với chính mình rằng hãy TIN--hãytinđó là sựthật không nào? Nếu chúng ta không thật sự sống thì làm sao chúng ta có thể đưa ra những nghi vấn về cuộc sống? Cái tâm nghi ngờ, lầm lẫn, ngớ ngẩn của ta không gì khác hơn là Phật tánh. Nếu ta không thể có lòng tin--tin là ta biết mũi ta thì nằm dưới mắt--ta sẽ không bao giờ thấy cuộc sống mà ta đang tìm. Ta sẽ giống như một đứa bé hư khi mồm thì đầy cháo mà vẫn cứ khóc cho là mình đang đói. Cuộc sống mà tôi đang tìm kiếm không gì hơn là cái mà tôi đang có . Cuộc đời tôicuộc đời tôi. Thật kỳ lạ, thật ngạc nhiên biết bao khi nhận ra điều này!

Hôm qua khi tôi bước xuống đường toàn thể vũ trụ bổng nhiên được sinh ra. Cái tâm lý luận đã bỏ lại một gã ngốc độc ác rên rĩ, giống như Iago ở cuối vở kịch Othello.Làm thế nào có thể nói là tôi là vũ trụ--tôi có thẩm quyền về sống chết trên chính cái sống chết? Tôi bị sốc.

Tất cả mọi người, mọi vật đã từng là một vấn đề nát óc đối với tôi, nay đột nhiên như những đứa con lưu lạc từ lâu đã trở về.

Rơi lệ vì vui, vì ngạc nhiên với từng cái nhìn, với từng âm thanh--tiến keng của tách trà khi cái muỗng chạm nhẹ lúc tôi khuấy đường, tiếng sột soạt khi tay tôi xếp những tờ giấy để bấm lại với nhau, một trái cà chua đỏ…

Tôi có điên hay không khi nghĩ là chỉ mình tôi đã tạo ra trời đất?

Những cảm xúc của tôi không thể diển đạt được. Vì con người này, vẫn luôn căm ghét những gì đơn điệu tầm thường, nhận thức rằng cuộc sống bình thường của cô ta là chìa khoá mở toan cánh cửa vũ trụ và nổi đau của tất cả chúng sinh, chắc chắn là điều kỳ diệu nhất, sững sờ nhất. Tôi vừa mới được sinh ra tuy là không có sự sinh nở…không có gì. Khi tôi viết, không có dấu vết gì của chính mình hay những gì tôi đã nói ra còn lưu lại. Con người này biết làm gì ngoài vui mừng khi chính khái niệm này đã làm cô bối rối nhiều tháng, nay được giải quyết. Bây giờ chắc chắn nhìn từ mọi phía đều thấy là

Không có gì tuyệt đối!

Lão sư, tôi không thể hiểu hàm ý của những gì đang xãy ra. Thậm chí tôi không thể nói tôi biết cái gì đang xãy ra. Chỉ có điều gì tôi cảm nhận được, điều đó mới chắc chắn. Làm cách nào những kinh nghiệm như vậy đến với một người có đầu óc đơn giản như tôi?

Bây giờ tôi ngồi ngạc nhiên, khiêm tốn và câm lặng. Hầu như mở được các Pháp môn và nhìn thấy ngọc quí bên trong còn thật hơn những gì tôi đã nghĩ là có thể. Làm sao người ta có thể coi nhẹ tâm thân, khi biết rằng cái cốt lõi sinh tử cũng tìm thấy nơi những chúng sinh vô minh nhất?

Và nghĩ rằng có lẽ tôi sống thêm được nhiều năm nữa. Thật diệu kỳ! Đúng là được sống--tôi không tin là mình tốt số đến thế. Thật vô cùng biết ơn tấm thân này!

Có nhiều thứ nữa tôi muốn nói. Có lẽ chẳng bao lâu nữa tôi sẽ tự tìm thấy trong tâm, rồi tôi sẽ kể.

Đừng cho là tôi điên. Nếu điều tôi nói ra phát xuất từ vọng tưởng, thì rõ là vì những mê hoặc vẫn còn bám vào đứa con gái ngu xuẩn này. Tôi hứa sẽ làm việc cật lực hơn để có thể nhận thức đầy đủ về giác tánh của mình, và nổ lực để xứng đáng với niềm hạnh phúc vĩ đại là được sinh ra để đảm nhận công việc kỳ diệu nhất này trong tất cả các công việc.

Vô cùng biết ơn thầy,

Margaret

2

Lão sư kính mến, lòng tôn kính của tôi hướng về mọi người ở Trung tâm, nơi mà tôi đã lưu lại làm việc trong vài tháng qua--hướng về tất cả chúng sinh --dường như là một phép mầu tự nhiên. Tự thâm tâm tôi biết rằng cuộc sống của tôi phù hợp với cách kỳ diệu của Pháp giúp cho tất cả chúng sinh đến gần với chân lý hơn, như những hành động yêu thương của người mẹ tác động tích cực lên con mình.

Mỗi ngày kho tàng bí mật nhất của cuộc đời thu được sự lộng lẩy và đẹp đẻ. Tôi sẽ cố gắng sống và làm việc trong chân lý. Cái cảm xúc này quá mạnh đến nổi nghiệp của tôi lúc này nằm ở Trung tâm--hay tôi phải nói là nghiệp của mọi người ở đây và khắp nơi trong vũ trụ, là nghiệp của tôi--và của tôi là của họ.

Rất biết ơn thầy,

Magaret

3

Lão sư kính mến, có thể nào cuộc sống có thể tiếp tục trôi vững chải như hiện nay khi mà mùa Đông đang đè nặng lên chúng ta?

Cuối cùng, hôm nay tôi đã hiểu ra lời của thiền sư Đạo Nguyên, nó hãy còn vang vọng trong tâm tôi từ lần đầu nghe được nó:" Trở về với hai bàn tay không, tôi không giữ lại dấu tích nào của Phật pháp. Tôi chỉ có thể nói điều này: mắt tôi nằm ngang, mũi tôi nằm dọc."

Thật tự nhiên, hoàn toàn tự nhiên biết bao cuộc sống của tôi bây giờ!

Lão sư, tôi đãnh lễ thầy lần nữa và lần nữa. Cuối cùng từ bây giờ tôi có thể di chuyển nhanh và không bị chướng ngại. Ngay cả sự chấp thủ, quyến luyến bám rễ sâu của tôi đối với thầy và mọi cái liên quan đến cách toàn hảo của Pháp đang tan rã nhanh chóng như tuyết rơi trong tuần này. Nó sẽ là kết quả hiển nhiên nhất của côn phu tọa thiền đều đặn và kiên trì. Cái đệ nhất bí mật của Pháp đã được vén lên, biến tôi từ một cô gái xuẩn ngốc thành một thiếu phụ trẻ mà không nhận biết được vì sao như thế.

Lão sư, hãy chia sẽ niềm vui với tôi, vì tôi được ban cho ý chí và sức khoẻ tốt để đi theo chánh đạo của Đức Phật trong kiếp này và tất cả các kiếp vị lai.

Như thầy thấy đấy, từ những điều vô nghĩa tôi viết ra, một ngàn, ồ! không, một triệu cái ô uế vẫn còn lại đây. Nhưng chúng là những hạt sạn trên lối đi mà nơi nước triều dâng. Tuy vậy, không có sạn cũng không nước. Không còn cách để lựa chọn hay không có chúng sinh nào để cứu độ. Tôi chỉ biết có mỗi điều này: Buổi sáng mặt trời mọc và buổi tối trăng chiếu rực rở.

Lão sư, đừng làm việc quá sức và hãy quan tâm đến sức khoẻ của thầy.

Rất biết ơn thầy.

Margaret

7 " ÔI CON NGƯỜI LÀ TÁC PHẨM KỲ DIỆU NHẤT --CHỈ ĐỂ BƯỚC TRÊN TRÁI ĐẤT NÀY" (^)

Lão sư kính mến, thật là lạc đề khi nói về những gì dường như lịch sử của một phép mầu thật sự, cái đã giải thoát đời tôi tới tột đỉnh như vậy trong khoá nhiếp tâm vừa qua. Tôi đã ngộ pháp-bất-khả-thoát ( inescapable) và trực nhận một cách không lầm lẫn chân lý của các lời dạy của chư thầy, tổ. Bây giờ tôi biết tôi cần phải học nhiều hơn nữa. Giáo pháp của Phật quá hiển nhiên cần gì phải xưng tán hay lý giải bởi nó rất cần thiết cho cuộc sống dẫn đến ngộ ( đó là cuộc sống với sự tỉnh thức), tất cả đều xuất phát từ--sự hoàn hảo và thâm nhập vào pháp giới.Cáimà tôi có vượt lên trên tất cả nghi ngờ, cảm nhận tuyệt đối--ồ, không--đi vào--ồ, không--không gì cả, không gì cả. Không một từ nào ngoài từ--câm lặng có ý nghĩa tuyệt đối và vô nghĩa tuyệt đối vang trong im lặng bất tận bao hàm tất cả. Với tôi, từ này, nhờ vào kích trượng và đôi tay rắn chắc nhưng nhẹ nhàng của thầy, là KHÔNG. Như thầy đã khăng khăng, cuối cùng đã dồn tôi vào tất cả các chân tường-- chỉ KHÔNG, chỉ KHÔNG mà thôi.

Vì vậy--bây giờ tóm lại--từ cái quá khứ luôn hiện diện đang phai mờ dần và không còn thích ứng, cái KHÔNG này kẹp chặc lấy tôi. Và tôi nhìn thấy tất cả sự điên rồ, những chướng ngại của đời tôi lấy ngã làm nền tảng và nhất thiết phải đập tan những ảo giác thật này. Và rồi trong tôi, đấu tranh với tất cả những cuồng nộ và hiện thân độc ác của từng chặn đường khó khăn gian khổ đi tới thiên đường như trong tác phẩm Pilgrim's Progress. Và tôi thề là có thể sẽ không bao giờ dừng lại cho tới lúctất cảmất đi và ngay cả lúc đó tôi cũng không dừng lại.Và vào một đêm nọ, KHÔNG bót cổ tôi không cho tôi ngũ. Tôi nghe tiếng nói và vật gì đó bò lên tôi, nhưng đó chỉ là KHÔNG, và KHÔNG, và KHÔNG. Ngày hôm sau, tôi buồn vì tôi đã và không biết một tígì về KHÔNG--Tôi không biếtlà câu trả lời cho mỗi câu hỏi có thể hiểu được. Và khi tôi đi ra ngoài đồng lúc giữa trưa trong tiếng chim hót, tiếng côn trùng rả rích, và cỏ ấm áp bình yên, tôi khóc chua xót vì biết không có gì để giữ lấy--không gì cả. Tôi không có cách lựa chọn nào khác ngoài sự phục tùng. Và tôi trở lại ngồi ở thiền đường và KHÔNG tràn đầy hơn nữa trong tôi. Bây giờ tôi không còn biết gì về thời gian --chỉ cảm nhận cái chuông này và quả lắc kia đã đẩy hay đập hay đánh thức một cái gì xa xôi, và từ sự tan biến dần của "những kinh nghiệm vĩ đại" trong quá khứ và đặc biệt từ tuần nhiếp tâm này, tôi đã học được cách không bám vào "kinh nghiệm", cho dù vui thú đến đâu --và vì vậy KHÔNG tiếp tục. KHÔNG. KHÔNG. Kích trượng đập vào vai tôi mỗi khi nó đập vào vai ai đó trong thiền đường và tiếng chuông, tiếng gió, và tiếng ve, tất cả đều ở trong tâm tôi và KHÔNG và KHÔNG và tôi sẽ không ngừng. Một cú đập cuối cùng ở nơi nào đó trong tâm tôi chạy ngang qua vai một người ở góc phòng mang tới một sự kết thúc và tôi bị vặn mạnh trong cơn đau kịch phát của cái ngã bị vở vụn bởi KHÔNG, KHÔNG, KHÔNG. Và lần thứ hai nó xãy ra, tôi không đầu hàng sự cám dổ dừng nghỉ ở bất cứ thứ gì gọi là " vinh quang" hay " Tôi hiện hữu nơi đây." Nhớ điều đó nó đã giữ tôi mãi mãi và đưa tôi trọn vẹn vào tầm hoạt động vui nhộn của nó, tôi không nắm mà thả ra, và không có gì thu hút tôi. Tôi thấy không có gì trong vũ trụ tồn tại mà có thể tách khỏi tôi ra khỏi cái tổng thể bất tử với nó tôi bây giờ biết chính-Tôi là một. Nhưng nhiều hơn thì trong tương lai. Thời gian không tồn tại trong những ngày đó, kiếp đó và rồi thân tâm tôi biến mất. Tôi vững chắc như những ngọn núi, không sợ sệt. Không có gì có thể được làm đâu đó mà không được làm ở đây bây giờ. Và tôi rời chổ ngồi trong thiền đường vì chuông reo xoay chuyển bánh xe pháp, quả là vui, quả là vui, và thầy ở đó, tôi đến trong nước mắt, nắm tay thầy và nói với thầy rằng cái đó quá dễ, quá dễ. Tôi rất biết ơn và thầy ôm tôi. Tôi và thầy xưa nay chưa từng hiện hữu và bây giờ không tồn tại, không có khởi đầu hay kết thúc.

Một hôm khi tôi cắm nhang ở bàn thờ, tôi cảm thấy thật uy nghi dể chịu và an tỉnh để làm thế. Và lúc đi kinh hành, đôi chân trần của tôi chạm sàn và lời phát ra:

Ôi! con người! tác phẩm diệu kỳ

Chỉ để bước trên trái đất này.

Tôi vâng theo và viết ra, rồi để mảnh giấy ở chổ thầy nơi thiền đường.Và trong buổi độc tham, không có một sự nghi ngờ nhưng hơi ngốc nghếch vì những làn sóng của con người mới vô kích cở của tôi. Tôi hỏi thầy phải làm gì và thầy đáp, nhìn vào tôi như nhìn vào Phật," Anh biết phải làm gì--chỉ việc tiếp tục." Và tôi biết rằng KHÔNG và thiền, thầy và tôi, và cái bánh xe pháp khổng lồ quay với sự Đại giải thoát, sẽ tiếp tục và sẽ tiếp tục mãi mãi trong tự do trọn vẹn của phi-lựa chọn, vì Pháp môn vô môn đã bị xé toạt và tôi bước tự do giữa trời đất.

Tôi đã nói hết những điều cần thiết, giờ tôi sẽ cố quăng nó đi. Còn một việc nữa. Lý do duy nhất mà tôi viết thư này là vì tôi chẳng liên quan gì tới nó, nó được viết ra vì không kềm chế được, vì vậy có lẽ nó có ích ở đâu đó lúc, vào một lúc nào đó như những thứ khác mà tôi hay ai khác đã từng viết được sử dụng một cách bí mật.

Tôi biết bây giờ thầy như một người bạn, người thầy thân thiết và tôi cám ơn thầy rất nhiều vì vai trò dẫn đường đầy cảm động của thầy trong cuộc đời tôi, trong Phật sự, và bây giờ tôi phải tìm lối cho mình, với sự trợ giúp của thầy, vào một khung trời mới của thế giới cũ, vâng theo tiếng gọi của Pháp, loại bỏ tất cả dấu vết của ngã và ngộ và những thứ rác rưỡi, bừa bải khác và tiếp tục và tiếp tục tiến tới, và cố gắng làm sống những chân lý sâu sắc nhất này và tiếp tục tiến tới, không trú ở bất cứ nơi nào .

Đãnh lễ thầy với tấm lòng biết ơn, Pháp huynh của tôi

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com