Áp dụng “Thường Tuỳ Phật Học” trong thời đại mới, bằng cách học hỏi, chấp nhận và tin tưởng lời dạy của bậc cao nhân khai ngộ từ nhiều pháp môn trong Phật Pháp.
NHỮNG ĐIỀU HỌC ĐƯỢC TỪ BÀI THUYẾT GIẢNG “TỰ LỰC VÀ THA LỰC TRONG TỊNH ĐỘ TÔNG NHẬT BẢN “do HT Thích Như Điển giảng ngày 29/8/2024 trên hệ thống trực tuyến Zoom online của ban Giáo lý Hoằng pháp Âu châu hàng tuần, .
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật .
Kính bạch Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Tổ Đình Viên Giác, Hannover, Đức Quốc , kiêm Chủ Tịch Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng GHPGVNTN.
Kính bạch Ngài, trước khi vào buổi thuyết giảng, nhờ biết trước chủ đề được giảng là “ TỰ LỰC VÀ THA LỰC TRONG TỊNH ĐỘ TÔNG NHẬT BẢN “ nên con đã nghiên cứu nhiều tài liệu có liên quan về chủ đề này nhất là tác phẩm “ Tìm hiểu giáo nghĩa của Chân tông Tịnh Độ Nhật Bản “ được Giáo Sư Định Huệ dịch từ tác phẩm chủ yếu của Ngài Thân Loan (1173-1262) là Giáo Hành Tín Chứng (Đại Chánh Tạng tập 83) với sự kết cấu toàn thể hệ thống giáo nghĩa Chân tông và các đặc điểm của nó.
Con cũng tìm hiểu thêm và được biết rằng “Ở Nhật Bổn, Tịnh độ tông và Chân tông Tịnh độ đã trở thành tông phái Phật giáo được quần chúng hoan nghênh nhất. Trong nhiều tác phẩm giúp con cũng hiểu thêm rằng: “Người tu theo Chân Tông Tịnh Độ hiểu rõ bản thân không thể do tự lực giải thoát, nên họ thường ôm lòng tri ân vô hạn đối với ân đức sâu dày của Đức Phật, và cuộc sống hàng ngày của họ tràn ngập pháp hỷ mang tánh tự phát và tình thương vô ngã đối với thế gian.”
Với hạnh nguyện thứ 8 của Đức Phổ Hiền Bồ Tát, con nghĩ rằng điều may mắn nhất của một hành giả sơ cơ trên bước đường tu tập là được nghe nhiều kinh điển qua các buổi pháp thoại và pháp đàm .Hơn thế nữa “ Hiểu sâu Phật pháp là để đạt được niềm vui của Pháp và sự an bình nơi tâm.” Khi biết mở tâm ra thì sẽ học được nhiều pháp môn, nhất là xuyên qua sự miên mật nghe pháp thoại từ những bậc đa văn quảng kiến.
Quả thật, hôm nay con được đưa tới cánh cổng của Tịnh Độ Chân tông Nhật Bản nhờ được thính pháp từ Ngài (với kinh nghiệm tu học hơn 7 năm rưỡi tại Nhật Bản) đã gây cảm hứng cho con về pháp môn này và thực hành làm sao để hướng về Tha Lực của Đức Phật A Di Đà một cách tuyệt đối .
Kính bạch Ngài, sau bài giảng hôm nay, đã giúp tâm thức con rụng rơi các thứ chướng đạo, khai mở thiện đạo để trực nhận ra điều gì đó từ bản tâm của mình có sự tương ưng với pháp môn Tịnh Độ Chân tông Nhật Bản mà mục tiêu tối hậu của nó là tin cậy, giao phó chân thật. Tin cậy chân thật ắt hẳn dẫn đến giác ngộ tối thượng.
Thành kính trân trọng tri ân Ngài, và kính xin phép được ghi lại những điều con thu thập và khám phá ra những điều con chưa được sáng tỏ qua sự súc tích và sâu sắc tuyệt vời trong bài giảng hôm nay. Đó cũng là lợi ích nhất của sự nghe pháp khiến con luôn sống trong suối nguồn của sự an lạc.
Quả thật là một niềm hoan hỷ an lạc tràn về khi con đã chú tâm lắng nghe lại đến lần thứ 4 bài pháp thoại hôm nay do Hoà Thượng thuyết giảng mang một thông điệp tích cực về tha lực từ Đức Phật A Di Đà của Ngài Thân Loan đang thấm dần vào tiềm thức con để rồi thay đổi cách suy nghĩ và cảm nhận của con, nhất là trong bối cảnh tâm linh, giúp phát triển khả năng đồng cảm, làm phát triển kết nối sâu sắc hơn, bền chặt hơn giá trị tinh thần của việc Niệm Phật mà ở độ tuổi của con hiện nay không còn cho phép mình hoang phí trong việc tự lực nữa mà hãy trở về nguyện vọng như câu thơ của hành giả Saichi ( một đệ tử tiêu biểu Tịnh độ Chân Tông).
Nam mô A Di Đà Phật là chính ta,
Và A Di Đà Phật là cha mẹ tôi.
Đó chính là nhất thể hóa mà Đức Phật A Di Đà thể hiện,
Đối với sự đãi ngộ này, tôi vô cùng hạnh phúc,
Nam mô A Di Đà Phật.
A ! Saichi, Tịnh độ Cực lạc của bạn ở đâu ?
Tịnh độ của tôi chính là ở đây.
Thanh âm của bạn chính là Nam mô A Di Đà Phật,
Tôi vô cùng cảm kích,
Tôi, Saichi đã được danh hiệu của Ngài cứu độ
Bạn và tôi là một thể với Nam mô A Di Đà Phật
Danh hiệu Phật trong miệng tôi
lúc nào cũng có thể tìm được,
Đây quả thật là một vị Phật tuyệt vời
Đây là cha mẹ tôi A Di Đà kêu gọi tôi
Tôi, Saichi đã được trói buộc vào trong đó.
Lòng tin này thật là lòng tin kỳ diệu
Phật đã nghe được âm thanh của Phật
Ở đây không có chỗ cho Saichi tôi nhúng tay vào
Tôi vô vàn cảm kích ân huệ Đức Phật đối với tôi
Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô A Di Đà Phật.
Kính xin tán thán đến những đạo hữu sẽ phiên tả bài pháp thoại này vì xuyên suốt hơn 2 giờ đồng hồ từ những lời chỉ dạy về giáo nghĩa của pháp môn Tịnh Độ Chân Tông của Nhật Bản đến tác phẩm Thán Dị Sao và những lời đáp cho những câu hỏi đã chứng tỏ thể nghiệm súc tích của HT về tha lực của vũ trụ và của Chư Phật mười phương trong đó Đức Phật A Di Đà được Đức Phật Bổn Sư giới thiệu đến cùng bổn nguyện lực cà 48 đại nguyện của Ngài.
Sau đây con xin tóm tắt lại những điều con đã thọ nhận hôm nay, và vững tin rằng những điều đã học sẽ định hình và trở thành một phần trong hệ thống niềm tin và giá trị tư duy của con ạ !
I)-Điều thứ nhất về sự truyền thừa qua 7 vị Tổ và sử dụng Tịnh Tam kinh
HT Giảng Sư đã chỉ rõ kinh điển của Tịnh Độ Chân Tông Nhật Bản vẫn dùng TỊNH TAM KINH như pháp môn Tịnh Độ ở các quốc gia khác như Trung Quốc , Việt Nam, Đài Loan v, v…
Nhưng chúng ta không thể nào cảm nhận những ẩn nghĩa trong giáo huấn của Thân Loan, nếu chúng ta không thấu suốt những bí mật sâu thẳm trong ba bộ kinh đại-thừa: Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, và A Di Đà.
—-Đại Kinh, cũng được biết là Kinh Vô Lượng Thọ
—-Tiểu Kinh A Di Đà là một bản văn ngắn hơn nhiều miêu tả vẻ đẹp vô ngần của Tịnh Độ bằng hình tượng diệu kỳ, biểu trưng của trạng thái giác ngộ tối thượng
—-Kinh Quán Vô Lượng Thọ phác họa mười sáu cách thực hành thiền định dẫn đến giải thoát và tự do.
Trong ba bộ kinh nêu trên, qua sự khảo cứu dày công của Thân Loan, thì bộ kinh Vô Lượng Thọ chứa đựng những giáo lý cốt tủy, trọng yếu, và chính xác. Còn hai bộ kinh Quán Vô Lượng Thọ và A Di Đà thì đóng vai trò bổ túc ý nghiã cho bộ kinh Vô Lượng Thọ mà thôi
Giảng Sư cũng nêu rõ Chân tông Tịnh độ” có nghĩa là “tinh túy của giáo lý Tịnh độ”. Đây vốn không phải là tên của một tông phái, vì nguyên ý của Ngài Shinran (Thân Loan) không phải muốn sáng lập ra một tông phái mới, mà mục đích của Ngài chỉ là muốn chỉ bày cho chúng ta nội dung quan trọng chủ yếu của nền giáo lý Tịnh độ do 7 vị cao tăng Ấn Độ, Trung Quốc và Nhật Bổn truyền bá và phát triển như Thầy mình đã dạy
Bảy vị Cao Tăng là 7 vị Tổ của Tịnh độ tông Nhật Bổn : Tổ thứ nhất là Bồ tát Long Thọ (-250), Tổ thứ hai là Bồ tát Thế Thân (-400), Tổ thứ ba là Đại sư Đàm Loan (476-542), Tổ thứ tư là Đại sư Đạo Xước (562-645), Tổ thứ năm là Đại sư Thiện Đạo (613-681), Tổ thứ sáu là Hòa thượng Nguyên Tín (942-1017), Tổ thứ bảy là Thánh nhân Nguyên Không (Pháp Nhiên) (1133-1212)
Được biết khi thành lập một tông Tịnh Độ độc lập, Ngài Pháp Nhiên khước từ cách tiếp cận thiền quán và ủng hộ sự thực hành niệm Phật đơn giản, “Nam mô A Di Đà Phật”.
Sự thực hành đơn giản này là việc làm do chính đức Phật chọn lựa cho tất cả mọi người trong thời mạt pháp. Thời mạt pháp đã đến, rõ ràng với những trận động đất, bão lụt, nạn đói, bệnh dịch, nội chiến và hỏa hoạn nhận chìm thủ đô và nông thôn. Vì thế giới không ngừng trở nên bất an và hỗn loạn như hiện nay nhất vào lúc kỹ thuật công nghệ đang thống lĩnh toàn cầu..
Cả hai Thánh nhân Pháp Nhiên và Thân Loan đều sanh vào thế kỷ thứ 13 tương đương với triều đại nhà Trần của VN ( Vua Trần Thái Tông).
HT Giảng Sư đã nhắc lại lời dạy cốt lõi từ Pháp Nhiên Thượng nhân:
-“Chốn sinh tử do sự nghi hoặc mà vào, Thành Niết Bàn do lòng tin”
“Chỉ bằng cách niệm Phật mới được Đức Phật A Di Đà cứu độ.”
Hoà Thượng Giảng Sư đã kể lại nguyên nhân thành lập Tịnh độ Chân Tông Nhật Bản sau khi tóm tắt về thân thế và thời gian bị lưu đày của Ngài Pháp Nhiên và Thân Loan nhưng con chỉ ghi chú về sự phát triển và thành lập của Tịnh độ chân tông Nhật Bản như sau:
Trước khi Ngài Honen thành lập Tịnh độ, pháp môn niệm Phật đã phổ biến lưu hành trong giới dân gian và quý tộc, đây này là công của Đại sư Genshin (Nguyên Tín 942-1017) và các bậc Thánh khác của Tịnh độ tông như Thượng Nhân Koya (Không Dã 903-972). Ngài Genshin nổi tiếng bởi tác phẩm “Vãng sanh yếu tập” của Ngài. Trong tác phẩm này, Ngài diễn tả chi tiết cảnh giới khổ đau trong cõi ác và sự an vui ở cõi Tịnh độ Cực lạc, để khích lệ đại chúng nguyện sanh Tịnh độ.
Ngài Honen tu trì giáo pháp Thiên Thai tông nhiều năm(20 năm) ở núi Hiei mà bản thân vẫn không chứng ngộ, cuối cùng phát hiện mình không có cách nào thành tựu. Sau khi Honen đọc bộ luận của Ngài Thiện Đạo mà hoát nhiên đại ngộ, vì thế Ngài bỏ đi các phương pháp tu trì khác,từ đó nhất tâm tín nguyện niệm Phật.
Điều quan trọng của việc Honen chuyển lòng tin niệm Phật là ở sự thực Ngài phát hiện tự thân không thể làm cho mình giải thoát. Honen phát hiện ở sau danh hiệu Phật là thần lực vô lượng của Đức Phật A Di Đà. Do phát hiện này, Honen đã đứng ở một góc độ mới, xiển dương giải thích Phật pháp và đặt pháp môn niệm Phật trên các pháp môn khác.
Shinran (Thân Loan ) tuykhông phải lâm vào cảnh sơn cùng thủy tận, cũng không phải cảm thấy mình bị sức cứu độ của Đức Phật gạt bỏ bên ngoài.
Sự chứng ngộ của Ngài đối với sự vô lực tự cứu của bản thân, chính là chứng minh bản thân mình đã được Đức Phật A Di Đà nhiếp thọ và cứu độ.
Vì thế thông qua lòng tin chân thành đối với Đức Phật, Shinran có thể lãnh thọ công đức, trí huệ và sức mạnh vô lượng của Đức Phật, và hoàn toàn đặt căn bản của phàm phu tự ngã chấp trước vào trong lòng của Đức Phật A Di Đà.
Kiến giải đối với Phật giáo của Shinran ( Thân Loan) phát xuất từ kinh nghiệm tín thọ và lãnh thọ Phật lực (tha lực). Ngài chia Phật giáo thành hai hệ thống, là tự lực giáo và tha lực giáo. Chân tông thì hoàn toàn là tha lực giáo, các tông phái Phật giáo khác thuộc về tự lực giáo.
Đối với Thiện Đạo và Honen, (Pháp Nhiên) tín đồ Tịnh độ toàn tâm toàn lực xưng niệm danh hiệu Phật, còn đối với Shinran, thậm chí không khuyến khích niệm Phật. việc cần thiết là chỉ chân thành lãnh thọ sức cứu độ vô điều kiện của Đức Phật dành cho chúng sanh.
Thật ra trong Tịnh độ Chân Tông Nhật Bản, những người có lòng tin chân thành, niệm Phật và lòng tin đã hòa nhập thành một thể. Niệm Phật không phải nỗ lực tu trì, mà là pháp hỷ tự nhiên tuôn trào từ lòng tin chân thành. Vì thế, Nam mô A Di Đà Phật có nghĩa là cảnh giới Đức Phật A Di Đà và tín giả hòa nhập thành một thể, vì “Nam mô” là lòng tin của tín đồ, mà “A Di Đà Phật” là sức cứu độ tuyệt đối vô ngại của Đức Phật, điều này bắt nguồn từ 3 tâm đó là những chữ then chốt trong lời nguyện thứ 18 của Đức Phật A Di Đà .
Đó là:
-chí thành tâm ( tâm chân thành )
Thâm tâm ( tâm tin cậy hoan hỷ) trong câu Thâm tín Chư Phật giai sung mãn
Tâm ước mong được sanh vào cảnh giới Tịnh Độ (Bồ Đề Tâm)
Ba Tâm kết thúc trong cái được xem là sự hoàn thành của lời nguyện thứ mười tám : “Tất cả chúng sanh, đã nghe Danh Hiệu, giao phó chính mình và thỏa thích trong Nhất Niệm. Đấy là kết quả của tâm thành của Phật. Nếu họ ước nguyện được sanh về cõi Phật đó, họ sẽ được vãng sanh và ở nơi địa bất thối chuyển. Ngoại trừ những người phạm tội ngũ nghịch và phỉ báng pháp”.
Cả hai đoạn kinh trích ở trên chứng thực lòng bi bao trùm tất cả và vô biên của Phật A Di Đà. Tâm thành của A Di Đà hoạt động trong chúng sanh bảo đảm cho họ đạt được bất thối chuyển, trạng thái không trượt lại vào sanh tử.
Cũng cần biết đến giai đoạn u buồn khi Ngài Pháp Nhiên và các đệ tử bị chính quyền triều đình phân tán thành những bộ phận rời rạc và lưu đày đến những nơi xa xôi. Mãi đến 5 năm sau, năm 1211, triều đình ban hành sắc lệnh ân xá, cho phép Pháp Nhiên trở về Kyoto, nơi mà ngài sẽ từ bỏ thế gian vào năm 1212 với tuổi thọ bảy mươi chín tuổi.
Dẫu được ân xá, Thân Loan vẫn lưu trú tại Echigo cho đến vài năm sau để tiếp tục truyền bá giáo lý Niệm Phật, cũng như để củng cố những nhóm đệ tử do ngài sáng lập.Về sau, ngài định cư lâu dài tại Inada, gần Hidachi, huyện Kasama (thuộc tỉnh Ibaraki).
Cuộc sống của ngài vẫn còn xa lánh thế nhân, nhưng nhiều nhân vật với những thân thế và địa vị cao thấp khác nhau đã đến ra mắt tỏ ý cầu học và Ngài Thân Loan đã giới thiệu pháp môn Niệm Phật bằng tha lực của Đức Phật A Di Đà.
Năm 1224, Thân Loan công bố tác phẩm kiệt xuất và quan trọng nhất của ngài: “Giáo Hành Tín Chứng” (tiếng Nhật là: Ken Jôdo Shinjitsu Kyôgyôshô Monrui).
Giáo Hành Tín Chứng” hiển nhiên là một tổng hợp thực sự các văn phẩm Phật giáo Tịnh-độ.
Sách gồm sáu chương, khéo léo kết hợp và dung hóa nhuần nhuyễn những dẫn chứng từ các kinh luận cổ điển, những luận giải, cùng những chiêm nghiệm nội quán của tác giả.
Sau một bài đề tựa vô cùng hấp dẫn, Thân Loan giải thích tại sao mình phải căn cứ vào bản kinh Vô Lượng Thọ để làm nền tảng chính yếu trong việc sáng tác bộ luận thư này.(Chương I).
Tiếp theo, Thân Loan chứng minh pháp Niệm Phật đã đúc kết trong bản thân Ngài đến những vô lượng vô số phương thức tu tập. (Chương II).
Và lòng tin chắc thật, bền vững như kim cương không những chuyển hóa tâm hồn chúng ta, mà còn đánh động đến Trái Tim Thuần Khiết của A Di Đà (chân như tâm). (Chương III).
Kinh điển và sự luận giải của Đại-thừa Phật-giáo thường đề xướng một sự chứng ngộ cùng tột, viên mãn, - có nghĩa là đạt đến Niết-bàn tối thượng. Và hình thức chứng ngộ này còn hàm chứa ẩn nghĩa rằng: Dẫu chư vị Bồ-tát đã hoàn toàn thoát khỏi mạng lưói rối rắm của nghiệp lực, nhưng các Ngài vẫn tự nguyện tái sinh giữa lòng thế gian khốn khổ, để giải thoát tất cả chúng sanh bởi lòng thương yêu rộng lớn, cao thượng và không phân biệt sẵn có của mình.(Chương IV.)
Trong hai chương cuối của “Giáo Hành Tín Chứng”, Thân Loan đã bác bỏ những quan điểm thiên lệch về A Di Đà và cõi Tịnh-độ của Ngài.
Thân Loan cũng chứng minh rằng: Bằng đức tin rực rỡ như ánh sáng vô hạn lượng và vĩnh cửu như sức sống không cùng tận, chư Phật vì mục đích cứu vớt chúng sanh, đã biểu lộ sự viên mãn cao độ của Phật-tánh rốt ráo.
Thân Loan còn xác định rằng: Cõi Đất Trong Sạch của A Di Đà không phải là một thế giới vật chất được tìm thấy giữa các thiên hà xa xôi, mà chỉ là một trạng thái thanh bình hạnh phúc thực sự của Tâm Linh, vượt lên trên tất cả tư duy và diễn tả của thế gian tầm thường
Trong tác phẩm “Giáo, Hành, Tín và Chứng” được sáng tác bằng Hán-ngữ, thánh nhân Thân Loan đã lựa chọn SÁU trong số Bốn Mươi Tám Lời Nguyện Vĩ Đại của Bồ-tát Pháp tạng như là phần thiết lập nòng cốt của bản kinh Vô Lượng Thọ.
Lời Nguyện thứ 12 và 13 phù hợp với thể tánh của đức Phật A Di Đà bằng cái nhìn thuộc về không gian như là “ánh sáng không thể đo lường được” - và bằng cái nhìn thuộc về thời gian như là “sự sống không cùng tận, không giới hạn”. Trong ngôn ngữ bình thường, Nam mô A Di Đà Phật là nói, “Tôi đã đến, tôi đã về nhà.” Như thế, những người Phật giáo Chân tông gọi nó là trạng thái ổn định thật.
2)- Điều thứ 2 qua bài giảng khi nói về công trình phiên dịch của HT từ tiếng Phạn -Nhật- Việt với bộ Thân Loan Thánh Nhân tập 2 mà trong đó có nói về Tha Lực và Tự Lực của Tịnh Độ Tông Nhật Bản, con mới biết về một nhân vật có tên là Phật Triết đã đi từ Lâm Ấp sang Nhật Bản.
Phật Triết là một nhà sư ở cuối thời đại Lâm Ấp (192 – 756) thuộc vương quốc Champa (192 – 1832), một triều đại từng phát triển thịnh vượng ở miền Trung Việt Nam. Phật Triết đã sang Nhật Bản cùng với Bồ Đề Tiên Na, một nhà sư của miền Nam Ấn Độ vào năm 736. Ông đã dạy tiếng Phạn ở chùa Đại An (Đại An tự / Daian-ji) của Nara. Đồng thời, vào năm 752, ông đã cúng dường một điệu múa ở Pháp hội Khai nhãn tượng Phật lớn tại chùa Đông Đại (Đông Đại tự / Todai-ji). Điệu múa này, được gọi chung là nhạc Lâm Ấp, đã trở thành một phần quan trọng trong nhã nhạc Nhật Bản và được truyền lại cho đến tận ngày nay.
3)- Thế nào là Tự Lực và Tha lực trong Tịnh Độ Tông Nhật Bản..
Với chủ trương của Ngài Pháp Nhiên - THÁNH ĐẠO MÔN - Nan Hành Đạo , cần phải tự lực - Niệm Phật cần nhất tâm, cấp độ khó khăn là phải có sự niệm Phật từ đó tuôn chảy một cách tự nhiên lời niệm Nam mô A Di Đà Phật.
Tiến trình hiện thực như vậy có thể không quá đơn giản. Như vậy Tự lực là nỗ lực để đạt tới sự vào cảnh giới khác bằng cách tụng niêm danh hiệu của Chư Phật để mở đường cho sự giải thoát , nhưng chúng sanh không bao giờ có thể thực hiện trọn vẹn mục đích này vì luôn bị giới hạn vì những điều không ngờ tới như đời người rất ngắn ngủi luôn bất toàn và đầy bóng tối vô minh.
Ngài Pháp Nhiên tóm kết những con đường khác nhau của Phật giáo trong phát biểu của mình : “Trong Con Đường của những vị Thông Tuệ người ta hoàn thiện trí huệ và thành tựu giác ngộ ; trong Con ĐườngTịnh Độ người ta trở lại chính sự ngu dốt để được cứu độ bởi A Di Đà.”nhưng thật ra trên con đường của những bậc Thông Tuệ người ta phải tranh đấu với chính mình giữa mọi loại cạm bẫy trong xã hội.
Riêng Ngài Thân Loan chủ trương Tha lực của Đức Phật A Di Đà - Dị hành đạo, theo đó một khi đạt sự cứu độ bởi bản nguyện bất tư nghị của Đức Phật A Di Đà thì chắc chắn chúng ta được vãng sanh.
Khi có được tín tâm như thế thì từ sâu thẳm nội tâm chúng ta sẽ nghĩ đến việc niệm Phật. Đó là lúc chúng ta đang tiếp nhận lợi ích “NHIẾP THỦ BẤT XẢ “ của Đức Phật, nghĩa là chỉ cần chí tâm , tín nhạo và dục sanh (chỉ cần khởi lên ).
Và điều này cũng được một đạo hữu hỏi về vãng sanh, H T đã dẫn chứng khi dịch một đoạn văn về tha lực của Ngài Thân Loan như sau:
Để hiểu rõ sức cứu độ của Đức Phật cùng với sự tư duy sâu sắc của mình đã thay đổi tư tưởng Phật giáo và những lý giải thông thường, trong bộ sách quan trọng của Chân tông “Thán dị sao”, Shinran có câu danh ngôn như sau :” Ngay cả người thiện cũng đều được vãng sanh Tịnh độ, huống chi kẻ ác. Đối với việc này, người đời thường nói : ngay cả kẻ ác còn được vãng sanh Tịnh độ, huống chi người thiện. Câu này dường như có lý, nhưng trên thực tế đã sai ngược với bổn nguyện giáo lý tha lực vãng sanh”
Phải biết trong bản nguyện của Đức Phật A Di Đà, không phân biệt già trẻ, thiện ác, mà chỉ yêu cầu có tín tâm chân thật. Và vì sao ngay cả kẻ ác cũng được cứu độ chỉ bằng cách tin vào bản nguyện của Đức Phật A Di Đà? Đó là vì bản nguyện thành tựu vãng sanh của Đức Phật A Di Đà là nhằm cứu độ những chúng sanh tội ác thâm trọng, phiền não xí thạnh.
Đã có Tín tâm vào bản nguyện thì không cần phải làm thiện hạnh nào khác, vì không có thiện hạnh nào thù thắng hơn Niệm Phật. Cũng không nên sợ hãi điều ác, bởi vì “Không có điều ác nào có thể chướng ngại được bản nguyện lực của Đức Phật A Di Đà,”Những câu chuyện về Ngài A Xà Thế, Ngài Vô Não đã minh chứng khi họ nhập được vào dòng thánh,
Người dựa vào tự lực để thực hành thiện pháp và cầu vãng sanh hoàn toàn thiếu tín tâm vào tha lực, nên họ tự rời xa bản nguyện của Đức Phật A Di Đà. Ngược lại, những ai chuyển đổi tâm trí tự lực để tin tưởng và nương tựa hoàn toàn vào tha lực, thì có thể vãng sanh Báo độ chân thật.
Tâm chúng ta đầy đủ phiền não, thì dù có tu hành thế nào cũng không thể thoát khỏi sanh tử. Bản nguyện được thành lập là vì lòng bi mẫn của Đức Phật A Di Đà dành cho chúng sanh. Mục đích của bản nguyện là để kẻ ác thành Phật, nên kẻ ác tin vào tha lực thì đó là chánh nhân vãng sanh.
Vì vậy Thân Loan Thánh nhân đã nói: “Người hiền còn được vãng sanh, huống chi là kẻ ác”
4)- Hai điều cần phải suy ngẫm:
“-Một người có thể đúng 100 việc nhưng sẽ có một việc sai.
Một người có thể sai 100 việc nhưng có 1 việc sẽ đúng”
“ Sự học không đưa ta đến giải thoát nhưng muốn giải thoát phải cần đến học hỏi giáo lý và tu tập”
5)- Suy ngẫm về cái chết - có nênquan niệm “còn nước còn tát” khi bịnh nhân đã vô vọng cứu chữa?
Với những thí dụ đã được chứng kiến tận mắt trường hợp những đạo hữu quen thuộc lúc sắp lia đời, HT đã giúp cho con biết được rằng: Càng suy ngẫm về cái chết, càng giúp chúng ta biết giá trị của sự sống; biết cuộc sống không dài lâu nên an nhiên sống đời lành thiện, thay vì miệt mài toan tính bất an.Ngoài ra ý thức về cái chết là việc rất cần thiết, chúng ta sẽ không hoảng loạn trong giờ phút cuối. Lúc đó, chúng ta không thể dựa vào bất cứ gì từ bên ngoài, mà chỉ trông cậy vào chính mình. Nên chuẩn bị một đi chúc sẵn sàng cho hậu sự nếu có thể .
Ngoài ra cần có chuẩn bị trước, vì lúc sắp mất người ta sẽ bình tĩnh tiếp nhận và thanh thản ra đi. Những người này do từ trước đã nhận thức chân lý vô thường và nhân quả, đã nuôi dưỡng tinh thần trong an bình và đạo đức. Họ là những người tỉnh thức, không tham sống cũng chẳng sợ chết. Đối với họ, tuần tới chết hay năm tới chết không có gì khác.
Nếu không tỉnh sáng, khi thân xác sắp tan rã, nhập với cảm xúc đau đớn thái quá khiến con người mất hết khả năng tập trung, sẽ bị rúng động và hoảng loạn trong giờ phút cuối.
Kính tri ân Thượng Toạ Thích Nguyên Tạng đã cúng dường đại chúng bài thơ Giã Từ Cõi Tạm của đệ tử Thị Tâm Ngô Văn Phát nay đã 96 tuổi.
“Ngày tôi đi chẳng có gì quan trọng
Lẽ thường tình như lá rụng chiều thu
Như hoa rơi, gió cuốn bên lưng đồi
Sanh lão bịnh tử giữa dòng đời động loạn
Trên giường bịnh tử thần về thấp thoáng
Xin miễn bàn thăm hỏi hoặc khóc than
Khi xác thân thoi thóp trút hơi tàn
Nằm hấp hối đợi chờ giờ vĩnh biệt
Khoảnh khắc cuối đâu còn gì tha thiết
Những tháng ngày hàn nhiệt ở trần gian
Dù giàu sang hay danh vọng đầy tràn
Cũng buông bỏ trở về cùng cát bụi
Sẽ giã từ đời phù du ngắn ngủi
Để đi vào ranh giới của âm dương
Không bàng hoàng trước ngưỡng cửa biên cương
Nơi trần tục nơi vô hình cõi lạ
Chỉ cầu nguyện tâm hồn luôn thư thả
Với hành trang thanh nhẹ bước qua nhanh
Bỏ sau lưng những níu kéo giật giành
Kết thúc cuộc lữ hành trên dương thế
Ngoảnh nhìn lại đời người như giấc mộng
Đến trần truồng ra đi vẫn tay không
Bao thăng trầm vui khổ đã chất chồng
Giờ giũ sạch lên bờ thuyền đến bến
Nếu tưởng nhớ xin âm thầm cầu nguyện
Hãy xem như giải thoát một kiếp người
Cứ bình tâm thoải mái sống vui tươi
Kẻ đi trước người sau rồi sẽ gặp.
Nam Mô A Di Đà Phật
Mùa Vu Lan PL 1567
Thị Tâm Ngô Văn Phát
6)-Để trả lời một câu hỏi “Có mấy loại Tịnh độ?”
Theo HT Thích Thánh Nghiêm về các loại Tịnh độ, tổng hợp từ trong các kinh luận thì có thể chia làm bốn loại là: Tịnh độ nhân gian, Tịnh độ thiên quốc, Tịnh độ Phật quốc, Tịnh độ tự tâm.
Phật giáo Tịnh Độ có thể gợi lên một định hướng về một thế giới khác, nhưng tiêu đích chủ yếu của nó đặt vào cái tại đây và bây giờ. Không phải là cái tại đây và bây giờ do kiểm soát tự ngã mà nắm được, mà cái tại đây và bây giờ thân thiết như một quà tặng của chính đời sống để sống đầy sáng tạo và tạ ơn, ban cho chúng ta bởi lòng bi vô hạn.
Tính hào phóng của đại bi làm cho sự giải thoát của chúng khởi cái cũi sắt do chúng ta tự tạo trở nên có thể, vì “ Tâm trí là một nhà sáng tạo và cũng là kẻ tiếp thu tư duy, nó liên tục sản xuất ra những bộ phim mang tính chất tâm lý.”
7)-Về Sự Vãng Sanh
Hãy tin tưởng rằng vãng sanh là điều chắc chắn. Đàn áp cái tâm để trú hoan hỷ mà không sanh hoan hỷ là kết quả của phiền não. May mắn thay, Đức Phật đã biết rằng chúng ta là phàm phu đầy đủ phiền não, và bi nguyện cùng tha lực của Phật chính là dành cho chúng ta. Hãy phó thác đời mình cho Phật thì là an tâm hoan hỷ.
Hơn thế nữa, Thân Loan Thánh nhân nói: “Có chúng sanh tin vào Pháp này, cũng có chúng sanh hủy báng Pháp này. Đức Phật đã nói đến điều này. Bằng cách này, tôi đã phát khởi tín tâm, nhưng có người đến phỉ báng tôi, nên tôi chỉ tin những gì Đức Phật nói là chân thật.
Bởi vì sự vãng sanh là điều chắc chắn, nếu không có người phỉ báng mà chỉ có người tin tưởng thì người ta sẽ thắc mắc tại sao không có người phỉ báng. Nói là như vậy, nhưng không nhất thiết phải bị người khác phỉ báng. Đức Phật dự báo trước về đạo lý có hai hạng người phỉ báng và tin tưởng là để không ai còn nghi ngờ vậy.
Lời kết :
Kính tri ân HT Giảng Sư đã cho chúng con một bài pháp thoại quá tuyệt vời và thật hữu duyên cho những ai đã được khai ngộ như con hôm nay rằng “ Tha lực của Đức Phật A Di Đà là lòng đại bi đã vượt khỏi mọi đối tượng hoá ( bất nhị ) nhưng tham gia vào đời sống tâm linh của tất cả chúng sanh” Con cũng kính xin phép trích đoạn trong “ Sống với Thán dị sao “do HT đã dịch để chấp nhận và tin cậy hoàn toàn vào tha lực của Đức Phật A Di Đà.
“ Một người không biết một chữ và không hiểu đạo lý của kinh điển chú sớ vẫn có thể dễ dàng xưng niệm danh hiệu, cho nên gọi là Dị hành đạo.
Lấy việc học vấn làm trọng, đây là Thánh đạo môn, được gọi là Nan hành đạo.”
Thật ra không có văn bản nào cho thấy điều gì sẽ xảy ra với những người lạc lối trong học tập và lang thang giữa danh lợi, và kết quả của sự vãng sanh của họ sau khi qua đời là gì?
Lúc bấy giờ, người chuyên tu niệm Phật và người theo Thánh đạo môn tranh luận với nhau rằng, “Giáo pháp của tôi là cao siêu và giáo pháp khác là thấp kém.”
Bằng cách này, xuất hiện những kẻ thù của giáo pháp, đưa đến sự phỉ báng giáo pháp. Nếu nói năng theo cách này, chẳng phải là đang phỉ báng giáo pháp của chính mình sao?
Cho dù tất cả các tông phái đều nhất trí rằng, “Niệm Phật chỉ thiết lập cho những người vô năng, pháp môn này nông cạn và thấp kém”, chúng ta cũng không thể tranh biện với điều đó, mà chỉ biết: “Chúng ta là những phàm phu hạ căn, những người không hiểu một chữ, nhưng chúng ta chỉ tín thuận gốc ngọn sanh khởi của Phật nguyện. Đối với những người thượng căn thì đây là một pháp môn thấp kém, nhưng đối với chúng ta, đó là diệu pháp vô thượng.
Cho dù những giáo pháp khác ngoài Niệm Phật có thù thắng đến đâu, nếu chúng không tương thích với khí lượng của mình thì tu tập cũng khó thành tựu.
Mình và người đều có thể thoát khỏi sanh tử mới là bản ý của chư Phật, vì vậy đừng cố cản trở.” Nếu ta không đáp lại bằng sự tức giận, ai sẽ đến để gây thù hận với ta? Hơn nữa, có lời rằng, ở đâu có tranh chấp thì ở đó có phiền não, người có trí nên tránh xa.
Kính bạch Hòa Thương, con đã học được rằng:”Đối với tâm ước mong giác ngộ (Bồ đề tâm) cũng như vậy, nó cũng gần như không hiện hữu ở người mức độ trung bình. Thân Loan phát biểu nhận xét của ngài trong bài kệ sau :
Nghiệp xấu vốn không có hình tướng ;
Nó đến từ những mê lầm và tư tưởng điên đảo ;
Bản tánh của Tâm vốn là thanh tịnh,
Nhưng không ai có một tâm chân thật và thành thực.
Dù “không ai có một tâm chân thật và thành thực”, khi một người được thức tỉnh bởi ánh sáng của lòng bi chân thật, nguyện vọng giác ngộ trở nên thực sự sống động và Phật tánh lần đầu tiên trở nên thực sự năng động.
Tuy nhiên tất cả điều này phụ thuộc vào sự tin cậy chân thật, sự tin cậy này là công việc của A Di Đà biểu lộ trong đời sống của chúng ta. Tin cậy chân thật không thể đến từ một chúng sanh bị nghiệp ràng buộc ; nó trở nên chân thật và thực sự do lòng đại bi, công việc phổ khắp của Như Lai thấm nhuần thế giới. Trong cách trình bày của Thân Loan :Phật tánh không gì khác hơn Như Lai. Như Lai này phổ khắp vô số thế giới ; nó làm đầy lòng và tâm của đại dương tất cả chúng sanh. Như thế, cỏ, cây và cõi nước, tất cả đều đạt đến Phật quả. Bởi vì chính với tâm này của tất cả chúng sanh mà họ giao phó chính họ cho Lời Nguyện của pháp thân như là lòng bi, sự tin cậy này không gì khác hơn Phật tánh.
Khi chúng ta giao phó mình cho Phật A Di Đà, chính Phật tánh xuất hiện cụ thể trong đời sống chúng ta. Khi Thân Loan đặt tin cậy, giao phó chân thật ngang bằng với giác ngộ tối thượng, Phật hay Như Lai, ngài không nói rằng chúng đồng nhất. Hơn nữa, ngài gợi ý rằng nội dung tin cậy chân thật đến từ Phật, khiến con người có sự tin cậy chân thật “ngang bằng” với Phật.
Sự chứng ngộ tối hậu này được Thân Loan tóm lại :
Con người có tin cậy chân thật
Thì ngang bằng với Như Lai ;
Tin cậy chân thật là Phật tánh,
Phật tánh là Như Lai.
Như vậy...Tịnh Độ mỗi chúng ta được chứa trong đại bi của Phật A Di Đà, và khi lòng bi này thức tỉnh trong chúng ta, Phật tánh trở thành một thực tại. A Di Đà gieo trồng Phật tánh vào chúng ta.
Cuối cùng con kính dâng đến Hòa Thương. bài thơ để tỏ bày sự trân kính của con đến với Ngài,và kính chúc Ngài mãi là đại thọ cho chúng con nương bóng và với phước trí nhị nghiêm Ngài luôn sống trong tịnh lạc, tuổi thọ tự nam sơn
Kính tri ân Hoà Thượng, bậc cao nhân khai ngộ
Thật đại duyên nghe được bài pháp thoại hôm nay
Giúp con tiếp xúc với tư tưởng “Tha lực cứu độ “
và chọn phương hướng đúng đắn ở ngày mai (1)
Mà bản thân hẳn nhiên cần thiện hữu tri thức gợi ý!
Và Ngài đã ban cho con tài sản thật trân quý
Truyền đạt trí tuệ do tích lũy pháp lành,
các Tam muội môn, các giải thoát môn
Lời giảng dạy pháp truyền thấm vào thâm tâm
Giúp con mở mang tâm trí và tỉnh ngộ đạo lý !
Sức cứu độ của Đức Phật Di Đà rất sâu sắc giá trị !
Chỉ niệm Phật là đã …
biểu lộ lòng bi trọn vẹn, không cùng
“Xướng danh Phật”biểu hiện
bi mẫn của Ánh Sáng Vô Lượng ôm trùm
Đường tu tập càng thăng hoa
vượt qua khó khăn của sự tin cậy chân thật(2)
Có phải căn bản Tín tâm chính
chứa đựng sự giao phó chân thật !
Kính tri ân Hoà Thượng,
giới thiệu Tịnh Độ Chân Tông
Thấy ra còn phàm phu
bao giờ cũng chìm đắm trong tử sanh
Hãy nhìn lại giới hạn của tự lực
và thức tỉnh với vũ trụ bao la của Tha Lực.
Nam Mô A Di Đà Phật
Úc Châu cuối đông 31/8/2024
Phật Tử Huệ Hương
**************************
(1) Giáo lý Tịnh Độ thích hợp không chỉ cho thời mạt pháp mà cho cả mọi thời, đơn giản vì sự giới hạn của chúng sanh nghiệp báo là phổ quát, luôn luôn có khắp mọi thời.
Như thế công việc của Bổn Nguyện không chỉ hướng đến những chúng sanh của một thời kỳ đặc biệt mà cho cả ba thời quá khứ, hiện tại, tương lai.
Ngài Thân Loan viết trong Bổn Nguyện Nguyên Sơ của A Di Đà, Phật của Ánh Sáng và Đời Sống Vô Lượng rõ ràng nhận định điều đó :
Trong ba thời Chánh Pháp, Tượng Pháp và Mạt pháp
Bổn Nguyện của A Di Đà đều thịnh hành
(2) Thân Loan thường dùng thành ngữ “đại dương của tin cậy chân thật”.
Khi người ta đi vào đại dương bao la của lòng bi của A Di Đà, không còn gì xác định tự ngã nữa.
Người ta sống tự nhiên, tự phát trong đại dương không bờ không đáy, được hộ trì bởi tính làm nổi của nước mặn. Không có sự sợ hãi phải chìm, và mọi nghiệp xấu cuối cùng sẽ được chuyển hóa trong nước của đại dương