Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiên Nhân Sư

13/04/201105:13(Xem: 2546)
Thiên Nhân Sư
Duc_Phat_Thich_Ca (4)

THIÊN NHÂN SƯ
Thích Thông Huệ

Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tất cả chúng ta nhân dịp này, dù bằng hình thức nào, cũng muốn dâng lên Ngài lòng biết ơn, sự kính ngưỡng của mình đối với một cuộc đời vô cùng thanh cao đẹp đẽ.

Kinh Pháp Cú 387 dạy rằng:

Mặt trời sáng ban ngày
Mặt trăng sáng ban đêm

Khí giới sáng Sát lợi

Thiền định sáng Phạm chí

Hào quang Đức Phật chói sáng thường hằng.

Mặt trời đem lại ánh sáng và sự sống cho muôn loài, nhưng chỉ hạn cuộc vào ban ngày và trong Thái dương hệ. Mặt trăng chỉ soi sáng trái đất vào những đêm có trăng. Dòng vua chúa Sát-đế-lợi dùng khí giới biểu hiện quyền uy, củng cố địa vị. Phạm chí Bà-la-môn tu tập thiền định, nhờ đạo lực hướng dẫn tinh thần cho tín đồ. Tất cả công năng ấy đều có tính cách tương đối, giới hạn về đối tượng và không gian, thời gian. Chỉ có hào quang Đức Phật là chói sáng miên viễn, vượt mọi tưởng tượng và hiểu biết của con người.

Hào quang ấy không phải là một thực thể có hình tướng, mà chính là trí tuệ siêu tuyệt của một Bậc Đại giác. Trí tuệ Đức Phật không do học hỏi vay mượn từ những kiến thức bên ngoài, mà là tánh giác thường hằng sẵn đủ. Vắng bặt mọi suy tư biện biệt của ý thức, buông sạch mọi dính mắc căn-trần, soi rọi tận cùng sâu thẳm của nội tâm, Ngài thể nhập chân tánh, phát khởi trí Vô sư sau 49 ngày đêm thiền định. Những điều Đức Phật dạy về nhân sinh và vũ trụ đều do Ngài đã thấy đã chứng, nên đó là những sự thật tuyệt đối. Các nhà khoa học hàng đầu trên thế giới đã vô cùng kinh ngạc khi biết rằng, trong lúc họ phải dùng những dụng cụ hiện đại để khảo sát các sự vật hiện tượng ở tầng vĩ mô và vi mô, thì từ 25 thế kỷ trước, Đức Phật đã từng diễn tả vô cùng chính xác mà không cần thiết bị hỗ trợ nào. Khoa học càng tiến bộ, càng chứng minh những lời dạy của Ngài là nguyên lý bất di dịch, đến nỗi một nhà bác học lừng danh thế kỷ XX đã thốt lên “Điểm tận cùng của khoa học chỉ là điểm khởi đầu của Phật giáo!”. Vô hình trung, các vị công nhận rằng, Đức Phật là nhà đại khoa học và hơn thế nữa, một nhà SIÊU KHOA HỌC.

Về phương diện xã hội, Ấn Độ ngày xưa chia làm bốn giai cấp. Chỉ có Đức Phật, với câu nói bất hủ “Không có giai cấp khi mọi dòng máu cùng đỏ, không có giai cấp khi mọi nước mắt cùng mặn”, đã làm một cuộc cách mạng toàn triệt, phá bỏ tường thành phân biệt đẳng cấp lâu đời. Lại nữa, bằng lời tuyên bố dõng dạc “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”, Đức Phật đã đưa con người và mọi loài chúng sinh trở về bản vị. Ai cũng có Phật tánh, ở Thánh chẳng thêm nơi phàm chẳng bớt. Chỉ vì quên tánh giác mà chúng sinh tạo nghiệp rồi thọ khổ, đắm chìm trong sinh tử. Nếu quay về, nhận ra và sống cùng tánh giác, có ngày chúng sinh bình đẳng với chư Phật mười phương. Sự bình đẳng tuyệt đối giữa giáo chủ với môn đồ, giữa con người với muôn vật chỉ được tuyên thuyết và đề cao trong đạo Phật. Điều này giải thích tại sao chúng ta tôn xưng Ngài là nhà ĐẠI CÁCH MẠNG.

Bằng trí tuệ Vô sư, Đức Phật thấy rõ mọi nỗi khổ của con người, trong đó bệnh tật là nỗi khổ tái diễn nhiều lần và đa dạng nhất. Một thầy thuốc giỏi suốt đời tận tuỵ, cũng chỉ chữa trị được một số bệnh nào đó. Y học ngày nay, được chuyên môn hoá như các ngành khoa học khác, nên mỗi thầy thuốc lại càng chuyên sâu vào chỉ một lĩnh vực của mình. Đại tài như Hoa Đà, Biển Thước cũng khó giải quyết những vấn đề phát sinh từ sự ô nhiễm môi trường, từ cuộc sống hối hả đua chen, từ sự bất cẩn gây tại nạn và từ những vũ khí giết người hàng loạt. Vì sao nói như thế?

- Bởi vì, thầy thuốc chỉ điều trị ngọn ngành mà không biết và không thể chữa căn nguyên của bệnh tật, là Tham-Sân-Si, như Đức Phật đã thấy rõ. Ngài không những hiểu tường tận nguyên nhân gây bệnh, Ngài còn tuỳ bệnh cho thuốc. Ngài không những điều trị cho con người, Ngài còn dạy bảo vệ môi trường sống. Ngài không những chữa trị thân tâm một đời, Ngài còn dạy nhiều phương pháp thoát ly sinh tử vĩnh kiếp. Tất cả thầy thuốc trên thế giới, nếu biết được đối tượng, phương pháp và kết quả điều trị của Ngài, chắc không ai không cúi đầu bái phục. Cho nên, chúng ta không hề khoa trương mà tôn Đức Phật là bậc VÔ THƯỢNG Y VƯƠNG!

Bên cạnh trí tuệ tuyệt vời, Đức Phật còn phát Đại Từ bi tâm giáo hoá muôn loài. Theo ý nghĩa trong đạo Phật, Giáo là dạy bảo, nhờ trí tuệ; Hoá là làm đối tượng cảm phục để chuyển hoá, nhờ từ bi. Trong suốt 45 năm hành đạo, Đức Phật đã chỉ dạy về Bản phận làm người, về cách đối nhân xử thế, cách trị quốc an dân. Hơn thế nữa, Ngài còn hướng dẫn nhiều phương pháp đưa con người tiến lên bậc Hiền Thánh. Ngài là vị thầy dẫn đường của Trời Người và tất cả chúng sinh, xứng đáng được tôn vinh là nhà ĐẠI GIÁO DỤC.

Một nhà bác học với trí thông minh hơn người, với sức tập trung cao độ, với khả năng làm việc phi thường, với tâm huyết phụng sự nhân loại đến độ quên cả bản thân, chúng ta phải kính cẩn nghiêng mình trước vị ấy. Đôi khi chỉ cần thành tựu một công trình nghiên cứu, nhà bác học đã được tôn là bậc vĩ nhân, là cứu tinh của nhân loại. Tuy nhiên, những bậc vĩ nhân - ân nhân ấy dù sao cũng chỉ có sự hiểu biết hạn chế vào lĩnh vực chuyên môn của mình, và cũng chỉ cứu sống tấm thân tứ đại nay còn mai mất. Chính bản thân các vị cũng không tránh được phiền não bệnh tật, và cuối cùng, không thoát khỏi sinh tử vô thường.

Đức Phật chúng ta không khảo sát sự vật hiện tượng qua thức tri tưởng tri-sản phẩm của ý thức phân biệt. Ngài nhìn sâu vào tận cùng bản thể các pháp, tuệ tri, liễu tri, thắng tri mọi vật nên vừa hiểu rõ tất cả sự lý thế gian, vừa thâm nhập các pháp xuất thế; vừa tự mình thoát ly phiền não sinh tử, vừa tuỳ duyên dạy người những phương tiện liễu sinh thoát tử. Nếu nói về sự quyết tâm, sự cần khổ kiên trì, sự tập trung đã đạt mục đích tối hậu, thì trong 5 năm tìm đạo và 6 năm khổ hạnh nơi rừng sâu, Ngài thể hiện ý chí siêu phàm. Nói về sự quên mình vì hạnh phúc đích thực của tha nhân, thì cuộc đời Ngài là cả một sự hy sinh vĩ đại: Khi chưa thấy đạo, Ngài sẵn sàng từ bỏ tất cả quyền lực vật chất và những ràng buộc tình cảm thế gian. Khi trở thành Đấng Giáo chủ được Trời người kính ngưỡng, Ngài cũng vẫn bay một bát, đôi chân trần đi khắp cõi Ấn Độ vì lợi ích vĩnh cửu cho chúng sinh. Như thế, dù chúng ta tôn Đức Phật là bậc ĐẠI BÁC HỌC, ĐẠI VĨ NHÂN, ĐẠI ÂN NHÂN hay bất cứ danh xưng nào khác, thiết tưởng cũng không thể xứng với tầm vóc và ơn đức của Ngài!

Ngày Phật đản là dịp ôn lại những công hạnh cao cả của Đức Phật. Chúng ta nhớ gương Ngài để nhìn lại bản thân, xem đã làm được gì có ích cho mình cho người, đã tiến bao nhiêu bước trên lộ trình tâm linh, có xứng đáng là con của Bậc Đại giác? Ngày Phật đản cũng là cơ hội cho ta nhớ đến vị Phật sơ sinh hiện diện ngay chính bản thân, mà mỗi giây phút ta phải nâng niu, phải luôn lớn. Được chút ít kết quả trên đường tu, chúng ta chia sẻ cho mọi người mọi vật chung quanh, để tất cả đều được sống trong hào quang miên viễn của chư Phật. Có như thế, chúng ta mới thật sự đón mừng ngày Phật đản một cách trọn vẹn và đầy đủ ý nghĩa nhất.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/04/2011(Xem: 2726)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
10/04/2011(Xem: 3580)
Trong Kinh Pháp Cú, Phật nói rằng: “Có 4 cái hạnh phúc chân thật, đó là hạnh phúc thay chư Phật giáng sinh”, bởi vì nơi nào mà có chư Phật giáng sinh thì nơi đó sẽ mang lại nguồn lợi ích, an lạc, hạnh phúc cho chư thiên và loài người. Tại sao chúng ta gọi là ngày giáng sinh hoặc đản sinh? Đản có nghĩa là vui vẻ, hân hoan, lợi ích cho nên ngày đức Phật sinh ra đời là ngày làm cho người hân hoan, vui vẻ. Đó là nguyên nhân mà mỗi mùa Phật Đản những người con Phật chào mừng ngày đức Từ Phụ ra đời với tinh thần thương yêu, hòa ái. Cờ Phật Giáo có 5 màu, và khi xưa người ta làm cờ với quan điểm là 5 màu thể hiện cho 5 châu nhưng về sau địa cầu có tất cả 6 đại châu mà Phật Giáo đều đến và làm cho tất cả xứ sở an ổn, hòa bình.
02/04/2011(Xem: 2972)
Mấy tháng trước ngày cơn đại sóng thần – grand tsunami – vỡ trào quét vào vùng biển Ấn Độ vào năm 2004, tàn phá vùng duyên hải của 12 nước ven biển và giết hại 230 nghìn mạng sống, người ta chú ý đến hiện tượng thiên di của các loài động vật. Những đàn kiến cỏ thầm lặng dắt díu nhau lên núi cao. Những loài dế đất, bọ cát tản mạn về đâu mà càng đêm càng vắng tiếng... Những loài vật càng nhẹ, ăn ít, không tham tàn với đồng loại càng vắng bóng nhiều hơn trong những ngày gần kề cơn đại họa.
28/03/2011(Xem: 2936)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết, và màu hồng của búp sen non vươn lên khỏi mặt nước như chứa đựng một sức sống mới của kiếp nhân sinh. Sự gắn bó hòa quyện của sen bao đời nay trong tâm trí của người con Phật nói riêng và người Việt nói chung. Sen là biểu tượng của đất nước và khi bàn về triết lý sen là một hình ảnh diễn tả ngôn ngữ giải thoát. Nên 2.555 năm về trước Bồ tát Hộ Minh giáng trần, đem ánh sáng trí tuệ đến cuộc sống này đã đi trên bảy đóa sen[1].
26/03/2011(Xem: 3342)
Kinh Phổ Diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
25/03/2011(Xem: 3203)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịch là hoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Đản trở về như để đón mừng Đức Thế Tôn ra đời. Lịch sử kể rằng bà Ma Da, công chúa của một nước láng giềng, là phu nhân của vua Tịnh Phạn nước Ca Tỳ La Vệ, khi có thai, theo phong tục của xứ mình phải trở về quê mẹ để sinh nở. Trên đường về, trong lúc dừng chân nghỉ ngơi tại vườn Lâm Tỳ Ni, hoàng hậu Ma Da đã hạ sinh Thái tử. Khi Thái Tử sinh ra thì được chư Thiên đến nâng đón và tắm rửa. Sau đó, lúc để xuống đất, Ngài đã bước bảy bước và dưới mỗi bước chân là một bông sen nở.
02/03/2011(Xem: 8996)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
13/02/2011(Xem: 19744)
Ca Sĩ Gia Huy, Tên thật của Gia Huy là Đặng Quốc Hung. Anh đến Montreal, Canada vào năm 1991 để cùng đoàn tụ với gia đình. Anh hát lần đầu tiên tại vũ trường Chateau Du Parc tại Montreal. Lúc đó, anh hát với ban nhạc Phạm Mạnh Cường để trình bày những tác phẩm như "Máu Nhuộm Bãi Thượng Hải", "Mười Năm Tình Cũ" và "Lambada". Ngay sau lần trình diễn đầu tiên, Gia Huy trở thành một ấn tượng của dân chúng tại Montreal. Anh bắt đầu hát cho một số vũ trường tại địa phương như Bistro Dore, Miss Sai Gòn, và Đêm Sai Gòn. Tuy nhiên, mục đích của Gia Huy là nổi danh ngoài Canada và khuếch trương số khán thính giả đi khắp thế giới.
14/01/2011(Xem: 3661)
Trang Vesak tứ từ rơi bụi đỏ sử triết văn đội chữ, gậy đường khuya đức Phật hiện chân dung sen khiết bạch
13/11/2010(Xem: 7561)
Lời bài hát: Từ Đàm Quê Hương Tôi Tác giả: Nguyên Thông Ca Sĩ Trình Bày: Quang Lê Quê hương tôi miền Trung Sớm hôm chuông chùa nhẹ rung Tiếng muôn đời hồn tổ tiên kiêu hùng Ôi uy nghi bóng chùa Từ Đàm Nơi yêu thương phát nguyện đạo vàng Qua bao giông tố chùa Từ Đàm tôi vẫn còn. Quê hương tôi là đây sớm hôm hương trầm nhẹ bay Vấn vương lời kinh chiều nay với đời Ôi thân yêu bóng Từ Đàm, nơi Bắc Nam nối liền một nhà Tay trong tay quyết vì loài người lầm than. Bóng ai từng đêm đêm về còn nhớ thuở nào đây Câu thề cùng ước nguyện cứu đời Tiếng ai chiều nay u hoài trầm lắng vọng về Theo câu thề nguyện hiến mình cho đời. Ai đi qua miền Trung, khoan khoan ơi người dừng chân Lắng nghe về đây hồn ai u hoài Ôi anh linh bóng chùa Từ Đàm Ôi nơi đây nắng chiều dịu dàng Ai hy sinh cứu đời phũ phàng Từ Đàm ơi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]