Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tập Thơ: Những Câu Thơ Tu Tập

10/08/202419:23(Xem: 2754)
Tập Thơ: Những Câu Thơ Tu Tập




phat thuyet phap 2



TẬP THƠ
NHỮNG CÂU THƠ TU TẬP
Tác giả: Cư Sĩ Tâm Lương Dào Mạnh Xuân

🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️🙏🙏🙏🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️






Nam Mô A Di Đà Phật

Kính thưa Quý bạn đọc,

Chúng tôi trình bày phần dưới đây vì muốn người đọc thơ cần phải hiểu sơ qua về niêm luật thơ.
Vì hiểu niêm luật, khi đọc thơ, thấy đúng niêm luật mới thấy thú vị và hứng khởi để đọc tiếp. Trước khi
vào phần niêm luật, xin được ghi:
*Thanh Bằng gồm dấu Huyền và dấu Ngang.
*Thanh Trắc gồm những dấu: Sắc, Nặng, Hỏi, Ngã.
(A): Niêm Luật Thơ Lục Bát: Xin xem ví dụ:
thơ Truyện Kiều:
(Câu 1): Trăm năm(2) trong cõi(4) người ta.(6)
(Câu 2): Chữ tài(2) chữ mệnh(4) khéo là(6) ghét nhau.(8)
(Câu 3): Trải qua(2) một cuộc(4) bể dâu (6)
(CÂu 4): Những điều(2) trông thấy(4) mà đau (6) đớn lòng.(8)
Nhận xét:
Quy tắc cơ bản của Cặp Câu Lục Bát là các chữ 2, 6, 8 mang thanh BẰNG,
chữ 4 mang thanh TRẮC. Các chữ còn lại tùy ý.
Đuôi câu 1 chữ 6 (ta) Vần với chữ 6 câu 2(là).
Đuôi câu 2 chữ 8(nhau) Vần với chữ 6 đuôi câu 3 (dâu).
Đuôi câu 3 chữ 6 (dâu) Vần với chữ 6 câu 4(đau).
(B):Niêm Luật Thơ 8 chữ. (Niêm luật thơ 9 chữ như thơ 8 chữ.)
(B.1): Để cho câu thơ đọc lên có âm điệu, chúng tôi đã dùng cách gieo vần như thơ LỤC BÁT ở chữ 6 và
8. Ví dụ:
(Câu 1):Một người gặp thất bại hay thành công.(8)
(Câu 2):Tất cả do Phước tích trong(6) cuộc đời.(8)
(Câu 3):Thành công nhiều, Phước có, lần lần vơi.(8)
(Câu 4): Biết vậy, TU PHƯỚC, tức thời(6) Phước tăng.
Quan sát 4 câu thơ trên ta thấy:
● Chữ 8 câu 1(công) vần với chữ 6 câu 2 (trong).
● Chữ 8 câu 2(đời) vần với chữ 8 câu 3 (vơi).
● Chữ 8 câu 3 (vơi) vần với chữ 6 câu 4 (thời).
● Nếu không CÙNG VẦN thì phải cùng THANH.
● Các chữ còn lại không bắt buộc.
(B.2): Ở thơ 8 chữ, chữ cuối câu 1 có thể mang thanh TRẮC. Ví dụ:
Đủ duyên, Con về Hành Hương Đất “Phật”,
Niềm tin vào Đạo càng “thật” sâu “dày”,
Khởi tâm nể kính bạn Đạo, Cô, “Thầy”,
Tinh tấn tu tập cả “ngày”, lẫn đêm,
Cách gieo vần cũng giống phần trên: “Phật” vần với “thật”
: “dày” vần với””Thầy”
: “Thầy” vần với “ngày”
Nhận xét: Nếu làm thơ lục bát, gặp trường hợp ta không thể tìm chữ thanh BẰNG ở các chữ 2, 6, 8 thì
hãy chuyển thành thơ 8 chữ. Xin mời đọc “Một Ngày Ở Bồ Đề Đạo Tràng” trang 164 trong sách này.
(B.3): Ở thơ 8 chữ, nhiều tác giả không áp dụng CÙNG VẦN ở những chữ 6 và 8 như đã trình bày ở trên.
Vì thơ 8 chữ có nhiều cách gieo vần khác nữa nên tùy theo sở thích mỗi người, họ dùng cách nào cũng
được.
3
(C): Niêm luật thơ 7 chữ, 8 câu.
Với “Thơ 7 chữ, 8 câu”. Xem ví dụ:
Thương vợ (Trần Tế Xương)
(1): Quanh năm(2) buôn bán(4) ở mom(6) sông.
2): Nuôi đủ(2) năm con(4) với một(6) chồng,
3): Lặn lội thân cò khi quãng vắng.
(4): Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
(5): Một duyên, hai nợ, âu đành phận.
6): Năm nắng, mười mưa, dám quản công.
7): Cha mẹ thói đời ăn ở bạc.
(8): Có chồng hờ hững cũng như không.
(C.a): Nếu chữ 2, câu (1) là thanh BẰNG:
(a1): Thì nhóm (1): bốn câu 1, 4, 5 và 8: các chữ 2 và 6 đều thanh BẰNG.
: Còn chữ 4 phải thanh TRẮC.
(a2): Và nhóm (2): bốn câu 2, 3, 6 và 7 : các chữ 2 và 6 đều phải thanh TRẮC.
: Còn chữ 4 thanh BẰNG.
(a3): Còn về VẦN: * Chữ cuối câu 1,2,4,6 và 8 phải cùng vần.(vần “ông)
* Chữ cuối các câu 3,5 và 7 không bắt buộc về VẦN.
(a4): chữ 5 và 7 phải khác THANH. Nếu không được vậy thì vẫn có thể dùng cùng THANH.
Ví dụ: “ Một mảnh tình riêng ta với ta.”// “ta” và “ ta” cùng THANH. (Qua Đèo Ngang: thơ Bà Huyện
Thanh Quan)
(C.b):Nếu chữ 2, câu (1) là thanh TRẮC:
(b1): Thì nhóm (1): bốn câu 1, 4, 5 và 8 : các chữ 2 và 6 đều thanh TRẮC.
: Còn chữ 4 phải thanh BẰNG.
(b2): Và nhóm (2): bốn câu 2, 3, 6 và 7 : các chữ 2 và 6 đều phải thanh BẰNG.
: Còn chữ 4 thanh TRẮc.
(b3): Còn về VẦN: * Chữ cuối câu 1,2,4,6 và 8 phải cùng vần.
* Chữ cuối các câu 3,5 và 7 không bắt buộc về VẦN.
(b4): chữ 5 và 7 phải khác THANH. Nếu áp dụng đúng quy luật này thì khi đọc một bài thơ 7 chữ, 8 câu
(hay 4 câu) ta nghe rất êm tai.
(C.c):Còn thơ 7 chữ, 4 câu: áp dụng niêm luật như 4 câu đầu.
(D):Niêm Luật Thơ Song Thất Lục Bát:
Xin mời đọc ví dụ trong Chinh Phụ Ngâm:
Thuở Trời Đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.
Xanh kia thăm thẳm tầng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi nầy.
Ta thấy: “bụi” cùng THANH với “nỗi”. // “Chuyên “vần với “trên”. // “Trên vần với “nên”.
Trong suốt “TẬP THƠ: NHỮNG CÂU THƠ TU TẬP” nếu có những sai sót về niêm luật hoặc những
khiếm khuyết khác, kính mong quý vị thông cảm.

Xin chân thành cảm ơn quý vị. Trân trọng

SAN JOSE, CALIFORNIA ngày 06 tháng 08 năm 2024

Tâm Lương Đào Mạnh Xuân




hoa_sen


HỌC HẠNH NHẪN NHỤC
Hay HẠN CHẾ SÂN HẬN 


Giận, Sân một niệm khởi lên,
Muôn ngàn nghiệp chướng chực bên liền liền.
Vậy điều cần nhớ trước tiên:
Luyện tâm NHẪN NHỤC để yên mọi bề.

Dù ai bêu xấu, mắng chê …
Ta xem như thể không hề chi đâu:
Chú tâm hít thở thật sâu,
Hoặc là niệm Phật nhiều câu chí thành,

Bị oan ức, Phật dạy rằng:
Không bào chữa, nghiệp dễ dàng tiêu tan.
Thực hành: SÂN biến rất nhanh,
Còn không, nhớ thuộc rành rành lời răn:

Trách mình trước, hãy trách nhân.
Cũng làm cơn giận bội phần bớt ngay.
Hay ta tạo ác trước đây,
Nên nay quả báo lộ bày chớ chi!

Còn điều này nữa, nhớ ghi:
Có ai mắng chửi, vội chi giận hờn,
Họ buông những tiếng độc mồm,
Chối từ không nhận, cõi lòng nhẹ đi.

Làm điều này lợi những gì?
Sẽ trừ được họa, một khi im lời.
Tâm hồn an ổn thảnh thơi,
Phát sinh trí huệ, cuộc đời vui tươi.

Còn xem “TA” lớn tựa trời,
Ai mà đụng đến, tức thời nổi sân.
Ấy người ngã mạn, kiêu căng,
Độc tài, cố chấp, hung hăng làm đầu,

Gây người thân lắm khổ đau,
Chửi thề, la lối nặng sao tâm hồn.
No không ngon, giận mất khôn.
Điều hay ấy phải thường ôn trong lòng.

Cả rừng công đức mênh mông,
Đốm SÂN hiện, đốt sạch bong chẳng còn.
Có người SÂN giết vợ, con,
Gây bao án nặng, chẳng còn tính nhân,

Lại đưa lắm bệnh vào thân:
Bệnh tim, mất ngủ bần thần canh thâu,
Huyết cao nữa,... khổ làm sao!
Quá SÂN, đứt mạch máu đầu, chết ngay.

Lửa SÂN thiêu đốt ngày ngày,
Não phiền, tức giận,… vò giày tâm ta.
Nổi SÂN miệng sẽ phóng ra,
Bao nhiêu lời ác, nghiệp ta lãnh phần.

Người SÂN, chết khổ vô ngần,
Đoạ ba đường ác, muôn ngàn đắng cay.
Ôm SÂN, quá khổ thế này!
Hãy mau cố bỏ, chớ chầy nữa chi.
Hãy làm có lợi tức thì:
Thân, tâm bớt bệnh còn gì sướng hơn.

Thành tâm kính mong Quý Bạn Đạo hữu duyên hãy cùng chúng tôi cố thực tập hằng ngày HỌC
HẠNH NHẪN NHỤC Hay HẠN CHẾ SÂN HẬN để đạt được mục đích là Dẹp Bớt Cái TA. Nếu được
vậy, chúng tôi xin đem công đức có được này hồi hướng tất cả Pháp giới chúng sanh, tương lai đều sanh
về Tịnh độ. Xin chân thành cảm ơn quý vị đã đọc bài viết và thực hành.
Phần đọc thêm:
Hãy luôn nhớ: chớ chê “nghịch cảnh” của người.(9 chữ)
Có khi gặp QUẢ BÁO ngay đời này thôi.
Nhục Mạ: tội ác khẩu nặng lắm, chẳng chơi!
Một lời nói chín chắn, thảnh thơi tâm hồn!

Tâm Lương Đào Mạnh Xuân

🙏🙏🙏🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️



pdf icon-2
Tập Thơ Những Câu Thơ Tu Tập_Tâm Lương Đào Mạnh Xuân









Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/08/2011(Xem: 4290)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
12/08/2011(Xem: 4134)
LTS: Thời gian trước, một số vị phật tử lớn tuổi, am hiểu cổ học, đưa ra ý kiến nói rằng, người xuất gia không hoặc khó làm đầy đủ câu hiếu để đối với song đường (bố mẹ). Vậy điều đó đúng không? Nếu đúng, thì hàng đệ tử xuất gia của đức Phật có đủ tư cách làm người hướng đạo cho cư sỹ tại gia cũng như mọi giới chăng? Nếu nhận thức trên của các phật tử là chưa thấu đáo, nguyên nhân do đâu?
11/08/2011(Xem: 4172)
Vu lan, tiếng Phạn gọi là Ullambana, còn được biết đến như là ngày lễ “Xá tội vong nhân” hay là ngày “Báo hiếu”, là một trong những lễ hội Phật giáo quan trọng của tín đồ theo đạo Phật ở Á châu. Theo truyền thống Phật giáo Đại thừa, lễ Vu lan được tổ chức vào ngày rằm tháng Bảy âm lịch. Ngày lễ Vu lan bắt nguồn từ sự tích ngài Mục Kiền Liên, một trong mười vị đại đệ tử của Đức Phật Thích Ca, nhờ vào phước đức cúng dường phẩm vật lên chư Tăng trong ngày Tự tứ và sức chú nguyện của Tam bảo mà mẹ của ngài thoát được kiếp khổ ngạ quỷ, sinh về thiên giới.
11/08/2011(Xem: 4292)
T rước 1975, nơi thị xã Nguyên ở, hằng năm cứ vào đầu tháng 7 âm lịch, trên các góc đường của ngã tư lại thấy xuất hiện các anh chị trong Gia Đình Phật Tử làm công tác cài hoa lên áo cho dân phố, nhân mùa Vu Lan về.
11/08/2011(Xem: 7287)
Mùa Vu lan lại trở về, gợi nhắc chúng ta nhớ đến tình thương vô bờ bến của cha mẹ đã dành cho mình. Và đối với người Việt Nam, hiếu thảo là truyền thống quý báu được đặt lên hàng đầu. Tất cả chúng ta đều nhớ như in bài học vỡ lòng đã được dạy dỗ từ tấm bé: “Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha. Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
10/08/2011(Xem: 9295)
Hiếu thảo với cha mẹ là một đức tính tốt đẹp được mọi người ca tụng, đức tính ấy được coi như một nền tảng cho mọi đức hạnh, là nhân tố quan trọng để xây dựng đời sống hạnh phúc cho cá nhân, gia đình và xã hội. Đối với đạo Phật, thực hành hiếu thảo là con đường giải thoát của chánh pháp, là con đường của người Phật tử. Không hiếu thảo với cha mẹ thì không thể gọi là một người Phật tử chân chính được. Bởi vì người Phật tử thì phải thực hành các thiện pháp mà trong kinh "Nhẫn nhục" nói rằng: "Điều thiện tối cao là chí hiếu, điều ác cực ác là bất hiếu". Vì vậy, báo hiếu là bản chất của người Phật tử và đã trở thành truyền thống tốt đẹp của người Phật tử Việt Nam nói riêng, Á Đông nói chung. Quan niệm về hiếu đạo của đạo Phật được thể hiện rõ nét qua hai cuốn kinh phổ biến là Kinh Vu Lan và Kinh Báo Ân Cha Mẹ, kinh mà không người Phật tử nào không biết, thường được đọc tụng vào dịp tháng bảy, lễ Vu Lan.
10/08/2011(Xem: 4654)
Chứng được sáu phép thần thông, nhớ mẹ Mục Liên Tôn Giả xuống A Tỳ tìm cứu mẫu thân. Phật dạy nương oai thần Tự Tứ, thiết trai cúng dường, đảo huyền thọ khổ chúng sanh được siêu thoát. Lại một lần nữa Đại Lễ Vu Lan Báo Hiếu lại trở về với người con Phật trên khắp năm châu bốn bể, tâm hiếu nguyện cầu lan tỏa bao trùm cả đại địa thời không.
09/08/2011(Xem: 5857)
Rằm tháng Bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng Bảy có nhiều ý nghĩa: Thứ nhất, ngày Phật hoan hỷ. Ngày rằm tháng bảy gọi là ngày đức Phật hoan hỷ, bởi lẽ trong thất chúng đệ tử của Phật, chúng Tỷ-kheo là chúng đệ tử gần gũi nhất, chúng thừa đương Phật pháp để truyền bá giáo hóa cho chúng sinh, chúng mang hình dáng của Phật làm gương mẫu ở thế gian, chúng mà trong ba tháng an cư kiết hạ đã viên măn và kết thúc vào ngày rằm tháng bảy âm lịch. Thông thường, khi chư Tăng thọ giới pháp xong là tu niệm
09/08/2011(Xem: 8491)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
09/08/2011(Xem: 7433)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]