Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bà Cụ Già & Chiếc Xe Chó

10/04/201320:00(Xem: 5292)
Bà Cụ Già & Chiếc Xe Chó

Tuyển tập bài viết về Vu Lan - 2011

Bà Cụ Già & Chiếc Xe Chó

Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ. Mỹ trong nghĩa từ Hán – Việt là "cái đẹp". Nhưng ít ai gọi cái tên ấy, người ta thường nhắc đến bà một cách nửa lạ nửa quen: bà cụ có chiếc xe chó.
Cỗ xe cuộc đời.
10 năm nay, bà con xã Phước Vinh, khu vực biên giới, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh đã quen với hình ảnh bà cụ và chiếc xe chó. Bao năm qua chó Vàng cứ lầm lũi kéo xe chạy trên đường, gánh trên vai gánh nặng cuộc đời của bà chủ tội nghiệp của nó.
Bà Mỹ từng có chồng, có con. Chồng mất, người phụ nữ ấy hết lặn lội nuôi con, đến nuôi dâu, rồi nuôi cháu. Mấy mẹ con tần tảo xây được căn nhà. Nhà mới chưa ráo hồ thì người ta khiêng xác đứa con trai đầy máu về đặt trước mặt bà. Một "hung thần đường phố" nào đó đã cướp sinh mạng nó rồi bỏ trốn. Người mẹ ấy lặng lẽ bán cái nhà mới xây để lo tang ma và xây một cái mả tươm tất cho con.
Bấy giờ, tài sản đáng giá của người mẹ chỉ còn cái thân già, ba con chó và một con heo. Con trai chết rồi, chẳng còn ai đỡ đần. Chỉ còn đàn chó, con heo trung thành quấn dưới chân bà. Ban đầu bà lấy mấy thanh tre, ghép với hai bánh xe đạp rồi dạy cho con heo kéo. Cái loài ủn ỉn hay ăn hay ngủ chỉ kéo được mấy bước rồi lăn ra nghỉ mệt. Bà thử buộc xe vào cổ ba con chó. Không ngờ chúng kéo chạy bon bon. "Vậy là trời còn thương, cho một kế sinh nhai, di chuyển". Bà tự nhủ rồi chất một bao gạo, một giỏ xách đựng quần áo và di ảnh của con trai lên cỗ xe chó ấy. Cứ chó kéo xe đi trước, bà đạp xe tất tả theo sau. Người và chó đi về hướng thị xã. Ngày đi. Đêm nghỉ bên lề đường. Ròng rã gần 70 cây số đến toà án tỉnh. Người mẹ quyết tâm đòi công lý cho đứa con xấu số.
Không nhớ nổi bao lâu ăn ở vạ vật bên đường để chờ đến ngày người ta tìm ra kẻ gây tai nạn, tuyên án, người đàn bà già cỗi ấy mới cùng ba con chó lủi thủi về. Đến quê, bà tặng hết số tiền người ta đền mạng sống đứa con trai cho cô con dâu, nó cũng nghèo khó và bạc phước như bà. Còn bà, dắt mấy chú chó xuống chiếc xuồng ba lá sống một đời lênh đênh.
Cuộc đời du cư cứ buổi sớm ra đồng mò ốc, mót lúa, mót mì…, buổi chiều lại cùng mấy con chó chở những thứ vừa kiếm được ra chợ để đổi lấy thức ăn. Hàng năm trời, giấc mơ của con người ấy và mấy chú chó cũng bập bênh trên con xuồng neo ở sông Vàm Cỏ. Sau trận bệnh tưởng chết trên xuồng, bà mới mua khung chòi tre với giá bằng bốn ký thịt bò. Người ta cho dựng nhờ trên một nền đất hoang bốn mùa lộng gió bên kia sông. Vậy là bà có một nơi bình yên để treo di ảnh đứa con thân yêu.
Robinson trên đồng
Nghèo, nhiều người nghèo. Khổ, nhiều người khổ. Nhưng, con người ấy đã cho tôi cảm xúc rất lạ. Lạ từ nụ cười khanh khách trên khuôn mặt đen nhẻm đầy bùn đất. Lạ từ những giọt nước mắt lăn vội khi bỏ di ảnh con vô giỏ bàng rồi treo lên cỗ xe chó chở theo những ngả đường mưu sinh. Lạ từ chuyện lần mò trồng và chăm sóc cả một vườn khổ qua, bí đỏ, rau lang xanh mướt… để cho bà con hàng xóm ai thích ăn thì cứ hái miễn phí. Lạ từ cách mỗi ngày bà đều tìm và cắm một cành hoa tươi lên vách chòi tả tơi. Lạ đến những ngày bà nhịn đói để cho mấy chú chó được no. Lạ từ sự tự vấn bản thân khi trót làm chết mấy chú chó: "Trời! Tui già rồi, mà sao tui còn ngu hết biết vậy trời!".
Gặp tôi, bà rớt nước mắt hai lần: lần thứ nhất nói tới con trai, lần thứ hai nhắc về mấy chú chó. Cỗ xe tam cẩu giờ chỉ còn một mình con Vàng kéo. Con chó được huấn luyện đeo tờ giấy đi chợ giúp bà cụ đã bị sợi dây quấn vào cổ chết khi thò đầu xuống sông uống nước. Con chó thứ hai từng bơi qua sông kiếm người cứu chủ nhân trong đêm bà bệnh nặng trên xuồng đã bị mấy bợm nhậu bắt trộm làm thịt.
Sau khi chèo xuồng đưa tôi qua sông, bà và con Vàng lặng lẽ quay về căn chòi le lói ánh đèn chong. Nơi ấy đêm đêm chỉ còn bà cụ và con chó ngủ còng queo trên chiếc nệm làm bằng rơm khô. Phía sau xe chúng tôi nặng trĩu mấy trái bí đỏ do chính tay bà cụ nghèo trồng và hái tặng. Dù thành phố đâu thiếu thứ rau trái gì. Dù đời sống vật chất ở vùng biên giới này chẳng dư thứ gì. Nhưng, biết đâu là giới hạn của thiếu và đủ. Thôi thì, cứ hồn nhiên cho và nhận những gì mình có – người đàn bà ít học ấy đã dạy tôi như thế!



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/07/2013(Xem: 7751)
Mỗi mùa Vu Lan về, chúng ta thường nghĩ đến Mục Liên Thanh Đề, người mẹ nghiệp chướng nặng nề của ngài Mục Kiền Liên và thương hại cho bà đã bị đọa vào địa ngục, . . .
28/05/2013(Xem: 5987)
Con thương yêu Khi gần đến lần sinh nhật thứ 18 và con đã sắp tốt nghiệp trung học, mẹ bỗng thấy lòng mình ngập tràn những tình cảm vui buồn lẫn lộn. Mẹ sung sướng vì con đã trưởng thành nhưng mẹ cũng lo âu vì chưa làm được gì nhiều cho con mà thời gian trôi nhanh quá.
09/05/2013(Xem: 3077)
Bà mẹ già ngồi ở băng ghế sau chiếc xe hơi bỏ mui màu đỏ sậm đang rẽ quặt xuống xa lộ. Bà ghì chặt lấy cái giỏ đồ để trên đùi như sợ gió ào ào thổi đến sẽ cuốn giỏ đi mất. Bà không quen với cái tốc độ quá nhanh như bay thế này. Với hai bàn tay run run bà siết lại chiếc dây an toàn quấn ngang người cho chặt hơn, nhưng bà vẫn cẩn thận không để các ngón tay chai sần của bà chạm vào đệm xe bọc da. Đệm quý giá lắm đấy! Con gái bà luôn miệng dặn bà đừng làm bẩn ghế: “Dấu tay sẽ lộ rất rõ ra trên đệm xe màu trắng đấy Mẹ à!”
22/04/2013(Xem: 7461)
Pháp môn niệm Phật, câu niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” họăc ngắn gọn hơn “A Di Đà Phật” đã hiện hữu với dân tộc Việt Nam hơn ngàn năm nay. Lúc tôi lên tám tuổi (1950), sống ở Hải Phòng, bà nội thường kể cho nghe Hội Chảy Chùa Hương lúc bà nội còn trẻ (thập niên 1920&1930). Lúc này đường đi còn khó khăn, đường lên Chùa núi dốc quanh co. Thế nhưng các cụ cứ chống gậy trúc mà miệng thì niệm “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát”.
11/04/2013(Xem: 9424)
Thuở Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng Tăng ni là mỗi năm phải An cư Kiết hạ vào mùa mưa [1]. Vì mùa mưa ở Ấn Độ, các loại côn trùng sinh sôi nảy nở rất nhiều, mà chúng Tăng đi khất thực sẽ dẫm đạp lên chúng, giết hại nhiều chúng sanh nhỏ nhoi, làm tổn thương đến lòng từ bi tế vật của hàng Phật tử, nên chư Tăng ni không được phép du hành ra ngoài, mà phải ở yên một chỗ trong thời gian ba tháng để nỗ lực tu tập thiền định, trau dồi giới định tuệ, cùng nhau sống trong hoà hợp thanh tịnh.
11/04/2013(Xem: 6530)
Ba ơi, con nhớ Ba, nhớ Ba nhiều lắm, ở xứ lạ quê người này con rất nhớ về Ba. Năm trước khi Ba chưa đi xa, cứ mỗi khi nhớ về Ba con chỉ cần nhất điện thoại là đã nghe được giọng nói của Ba, được ba động viên cổ vũ, kể cả khi Ba nằm viện, lúc mà cái đau thân xác đang không ngừng hành hạ Ba, Ba vẫn cố gắng nén nỗi đau để gượng cười với con và động viên con qua điện thoại, con đã cố rất nhiều ở xứ người để Ba mãn nguyện về con.
11/04/2013(Xem: 5855)
Con vẫn nhớ như in những ngày sau khi tháo bột và con bắt đầu đứng trước những thử thách khi tập vật lý trị liệu. Ba đã lặn lội đi tìm mua những cây tre thật chắc mà lại phải vừa tầm tay nắm của con để con tập đi. Sau những bước đi đầu tiên con đã khóc thét lên: “Đau quá, con không đi nữa!”, và mẹ đã nói những lời như cầu xin: “Mẹ xin con, con thương mẹ thì con phải cố, cố cho mẹ còn có nơi nương tựa nữa chứ con! Đừng phụ lòng mẹ!...”. Và con lại cắn răng tập từng bước đi...
11/04/2013(Xem: 4612)
Hàng năm, cứ mỗi độ Thu sang—Rằm Tháng Bảy, dân tộc Việt Nam nói riêng, các quốc gia Á đông nói chung, đều trang trọng hướng về Mùa Lễ Hội vừa có tính truyền thống thiêng liêng, vừa mang nét đặc thù hiếu ân, nghĩa đạo, mà ai ai cũng cưu mang, thừa hưởng, đón nhận, đáp đền. Đức Phật từng dạy : Không hạnh nào cao cả cho bằng hạnh hiếu, không tội nào nặng hơn cho bằng tội bất hiếu, lại còn giảng giải, chỉ dạy tường tận thâm sâu trong Vu Lan Bồn Kinh và Báo Hiếu Phụ Mẫu Trọng Ân Kinh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]