Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vu Lan Niệm Báo Tứ Ân

18/07/201316:42(Xem: 5809)
Vu Lan Niệm Báo Tứ Ân

red_rose_45

VU LAN NIỆM BÁO TỨ ÂN
Kim Tâm Thích Hạnh Niệm

Mỗi năm, vào độ nắng vàng phai

Mây trắng bên trời lờ lững bay

Tôi lại thấy lòng nô nức lạ

Đã vào hội tiết báo ân dày

Nên được tấm thân ở cõi đời

Thấm nhuần ân phước khắp muôn nơi

Hồi soi báo đáp cho tròn đạo

Kẻo hổ mang danh một kiếp người !

Trước tiên sinh dưỡng của song thân

Cửu tự cù lao khó tỏ phân

Săn sóc cho ta quên tự thể

Hiếu tâm báo đáp chỉ đôi phần

Cha mẹ sinh ta lắm nhọc nhằn

Công người dạy dỗ đức vô ngần

Làm nên danh phận trong trời đất

Phải nhớ đền bù giáo dưỡng ân

Quê hương, xứ sở những gần xa

Bình tịnh an vui đẹp cửa nhà

“Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,

Ngàn năm văn hiến Việt Nam ta” !

Xóm thôn tình nghĩa cảnh thân quen

Lân lý hôm mai “lửa tắt đèn”

Tuy chẳng ruột rà chung máu mủ

Cùng giàn bầu bí thắm đòi phen

Lễ hội Vu Lan đã trở về

Từ trong tâm khảm mấy lời quê

Dâng lên Tam Bảo hồi ân báo

“Dương thái âm siêu” đẹp mọi bề./.

VỀ QUÊ NGÀY GIỔ MẸ
Kim Tâm Thích Hạnh Niệm

Mẹ già quá vãng đã lâu rồi

Hình dáng người luôn sáng ở tôi

Bóng đổ liêu xiêu trên luống cải

Lúc người nhặt cỏ mỗi chiều rơi.

Thuở đó quê tôi chưa chiến tranh

Nơi nơi vui đẹp cảnh thanh bình

Tuổi thơ tôi trải trên đồng nội

Bên luỹ tre làng xanh thật xanh !

Không còn nhớ nữa được bao lâu

Bom đạn bỗng nhiên đổ xuống đầu

Làn sóng mẹ theo người tị nạn

Trên vai từ đấy trĩu đau sầu !

Làm sao nói hết những tang thương

Chết chóc, điêu linh, những đoạn trường

Những sáng xương rơi, chiều máu đổ

Hoà đàm, hoá giải vẫn vô phương !

Cuộc chiến leo thang đến tận cùng

Muôn người đồng một ước mơ chung

Mong cho chiến cuộc mau hoàn kết

Khoai sắn cùng nhau cũng thoả lòng !

Thế rồi cuộc chiến cũng đi qua

Dân trở về quê dựng lại nhà

Khoai sắn dẫu còn không lấp dạ

Tình làng nghĩa xóm vẫn vang xa !

Mẹ tôi trở lại cảnh vườn xưa

Bươn chải nào đâu kể sáng trưa

Chẳng được bao lâu Người quá vãng

Xóm làng triều mến thảy cùng đưa

Từ đấy, mỗi năm giữa độ hè

Tôi về thăm lại cảnh làng quê

Thắp hương cầu nguyện Người siêu thoát

Cùng viếng gần xa đẹp mọi bề.

Kinh số 97
Thuộc bộ kinh Tạp A Hàm
HT. Thích Hạnh Niệm

Kinh văn:

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật trú tại nước Xá Vệ, rừng cây Kỳ Đà, trong vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ sáng sớm, Thế Tôn đắp y mang bát vào thành Xá Vệ khất thực. Khi ấy có Bà la môn kia, tuổi già sức yếu, chống gậy ôm bát đi khất thực từng nhà. Bà la môn từ xa trông thấy Thế Tôn liền nghĩ thầm: “Sa môn Cù Đàm cầm gậy, ôm bát đi khất thực từng nhà, ta cũng chống gậy, ôm bát đi khất thực từng nhà. Ta và Cù đàm đều là tỳ kheo”.

Lúc đó, Thế Tôn nói bài kệ đáp:

Gọi là bậc tỳ kheo

Chẳng phải do khất thực

Giữ gìn pháp tại gia

Đâu gọi là tỳ kheo

Nơi mọi điều lầm lỗi

Đều lìa, tu chánh hạnh,

Tâm kia không sợ hãi

Đây gọi là tỳ kheo.

Bà la môn, sau khi nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành, đảnh lễ rồi từ giã.

Bình:

Đây là kinh số 97 trong Bộ Tạp A Hàm.

Xuất xứ của bản kinh, nơi nói kinh đã nêu rõ. Trong bài kinh, ta thấy ông Bà la môn già, nhân hình thức đi khất thực giống nhau: chống gậy, ôm bình bát đi khất thực từng nhà giống nhau, ông kết luận: “Ta và Cù Đàm đều là tỳ kheo”.

Đây là lối kết luận lấy một phần làm toàn thể như nhân thấy con quạ đen liền kết luận “Tất cả những gì đen đều là con quạ”. Đâu biết rằng một vị tỳ kheo sở dĩ đi khất thực hằng ngày là để thể hiện hạnh xả li và chính hạnh xả li nơi tâm mới là chánh hạnh làm nên một vị tỳ kheo. Sự xả li tất cả những chấp thủ nơi gia đình, của cải, trong không thấy có thân tâm là cái ngã, ngoài không thấy có nhà cửa, của cải … là những cái thuộc về ngã, tức ngã sở. Trong không thấy có ngã nên đối với thân ngũ uẩn không sinh tâm tham đắm, ngoài đối với các pháp thế gian không sinh tâm chấp trước. Như những kinh trước Phật dạy: “vì không đắm trước nên tự giác, Niết Bàn…” Ở đây, nhân sự việc này đức Phật dạy hai bài kệ. Bài kệ đầu minh định ý nghĩa của tỳ kheo, bài kệ thứ hai nói lên nội dung của chữ tỳ kheo. Hai câu đầu bài kệ thứ nhất nói hình thức khất thực không tiêu biểu cho một vị tỳ kheo dù rằng vị tỳ kheo sống theo lối khất thực. Tỳ kheo là vị đã xả li đời sống gia đình, sống đời thanh tịnh không vợ chồng, con cái. Do vậy điều đầu tiên phân biệt là ông Bà la môn còn giữ gìn pháp tại gia thì không thể nào gọi là tỳ kheo được. Từ xuất gia bắt đầu từ nghĩa “xuất thế tục gia”, nghĩa là ra khỏi nhà thế tục là cái nhà của thế gian mà trong đó vợ chồng, con cái sống chung với nhau trong vòng dây ân ái. Thứ đến là xuất phiền não gia, là ra khỏi ngôi nhà phiền não, ngôi nhà đầy dẫy tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến điên đảo. Có dứt trừ hết các phiền não thì mới có thể ra khỏi ngôi nhà tam giới được. Phiền não do mê lầm mà gây ra. Người đã dứt trừ các phiền não, đối với mọi điều phiền não được xa lìa, nhờ vào tu chánh hạnh. Chánh hạnh thuần thục, tâm không còn sợ hãi, tự tại, giải thoát. Đó là ý nghĩa của chữ tỳ kheo được dịch là phá ác, mà cũng là ý nghĩa bài kệ thứ hai ở đây vậy./.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/07/2014(Xem: 11479)
Hoài Vọng Mẫu Thân (thơ) Trần Trọng Khoái, Trần Kim Quế
30/07/2014(Xem: 11327)
Hiếu Niệm (thơ) của Trần Trọng Khoái
30/07/2014(Xem: 13618)
Ân Đức Sanh Thành (thơ) của Lão Thi Sĩ Trần Trọng Khoái
29/07/2014(Xem: 6057)
Cũng như có những trang kinh đức Phật chỉ dạy phương pháp báo đáp ân đức sâu dày đối với song thân một cách thiết thực nhất. Có nghĩa là đức Phật đã chỉ bày cách báo ân chơn chánh, hợp đạo lý, có lợi ích trong hiện đời và mai sau.
29/07/2014(Xem: 4813)
Lòng mẹ bao la như biển Thái bình dạt dào, Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào … Giữa khuya, âm thanh trầm bổng, sâu lắng ngọt ngào của một giọng hát nữ vang lên rồi vọng vào chốn thiền môn tĩnh lặng như xoáy vào tim. Con giật mình tỉnh giấc bàng hoàng nhớ Mẹ da diết. Nỗi nhớ làm con hạnh phúc, khiến con nhận ra tình mẫu tử thiêng liêng vẫn tồn tại giữa Mẹ và con. Vậy mà cả một thời gian dài, cả một đoạn đường đời, tình cảm ấy đã bị những oán hận, buồn tủi và sự vô cảm, vô tình làm con quên lãng, làm con không thể nhận ra được tình cảm của Mẹ cũng như nỗi đau day dứt của Mẹ. Giờ thì con đã hiểu nên biết nhớ biết thương khi tiếng hát về Mẹ vọng lên giữa đêm trường.
29/07/2014(Xem: 7276)
Hiếu thảo là truyền thống đạo đức quý báu của người Việt Nam nói riêng và người Á Đông nói chung . Chữ hiếu trong dân gian Việt Nam Người Việt Nam khi nói đến chữ Hiếu, liền nghĩ đến việc “thờ cha, kính mẹ”, như bài ca dao vở lòng mà ai cũng thuộc: “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”; hoặc trong Quốc văn Giáo khoa thư ngày trước:
29/07/2014(Xem: 8553)
Siêng năng cần mẫn nhọc nhằn Công ơn Cha Mẹ vĩnh hằng cao sâu Đẹp thay chín chữ Cù lao: Sinh ra đau đớn xiết bao nhiêu tình Cúc thời nâng đở hy sinh Phủ năng chăm sóc vỗ về vuốt ve Súc thường bú mớm no nê Trưởng nuôi thể xác, dưỡng mê thân hình Dục thời dạy dỗ thâm tình Cố luôn trông ngắm xem nhìn thiết tha Phục quấn quít không rời tay Phúc lo đầy đủ ẳm bồng không xa
29/07/2014(Xem: 4644)
MƯỜI CÔNG ĐỨC CỦA MẸ Ơn Cha Mẹ sâu dày không kể xiết Suốt cuộc đời gian khổ cũng vì con Bao đắng cay sức lực dẫu hao mòn Đức hy sinh vẫn chẳng hề nao núng
29/07/2014(Xem: 9113)
"Cây có cội mới trổ cành xanh lá Nước có nguồn mới tỏa khắp rạch sông" Được làm người công đức của cha ông Nên danh phận cảm nhờ ơn xã hội Chúng ta được thân làm người, là nhờ có tổ tiên, ông bà, cha mẹ và nhiều nhân duyên hội tụ. Chúng ta được khôn lớn nên người là nhờ ở sự trưởng dưỡng, giáo dục của Cha, Mẹ, Thầy, Cô và Xã Hội. Công ơn to lớn ấy, trong kinh Phật đã dạy có Bốn Đại trọng ân: 1/ Ơn Quốc gia, thủy thổ, 2/ ơn Cha, Mẹ, 3/ Ơn Tam bảo, 4/ Ơn Đàn na tín thí (xã hội), trong đó công ơn của cha mẹ là to lớn nhất, sánh bằng non biển, không thể bút mực nào tả xiết. Chỉ có tri niệm và thực hành mới hy vọng có một chút đáp đền. Đức Phật đã dạy rằng: công ơn của cha mẹ bao la như biển cả và cao vòi vọi như trời xanh vô hạn, với sự hy sinh cao đẹp, “bên ước mẹ nằm, bên ráo phần con”, thật là “ Đi khắp thế gian, không ai tốt bằng Mẹ, gánh nặng cuộc đời, không ai khổ bằng Cha”, Thương và lo cho con nên “miễn sao có lợi thì làm, chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm…”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]