Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phát Bồ Đề Tâm Là Chân Thật Báo Hiếu

14/09/201208:05(Xem: 4796)
Phát Bồ Đề Tâm Là Chân Thật Báo Hiếu

vu-lan-bao-hieu-01
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM
LÀ CHÂN THẬT BÁO HIẾU
Thích Nữ Giác Anh

Tình cảm giữa con cái với cha mẹ luôn là tình cảm ấm áp thiêng liêng nhất trong tất cả những tình cảm của con người. Những ngày còn cắp sách đến trường, học trò tuổi ấu thơ đã ra rã thuộc lòng:
Ân Cha lành cao như núi Thái
Đức Mẹ hiền sâu tợ biển khơi
Dù cho dâng trọn một đời
Cũng không trả hết ân người sinh ta.

Mãi đến khi tỉnh giấc mộng đời, vào chốn thiền môn, bên tai vẫn còn văng vẳng:

Thế Tôn chủ ba cõi
Đại hiếu Thích Ca Văn
Trần kiếp báo thâm ân
Tích niên thành Chánh Giác.

Thế gian lấy Hiếu để xây dựng tư cách một người có đạo đức trong xã hội, Đạo Phật lấy Hiếu làm nền tảng cho Giác ngộ và Giải thoát. Không có hiếu nghĩa là không có đạo đức. Không có hiếu, dù có tu đến bao nhiêu cũng đừng mong thoát khỏi phiền não sinh tử. Công ơn của cha mẹ không thể lấy gì đền đáp cho hết được, duy chỉ có lấy Hiếu làm động lực tu hành, sớm cầu quả vị giác ngộ, thoát khỏi sinh tử luân hồi, phổ độ chúng sanh trong đó có cha mẹ, không chỉ đời này mà còn vô lượng đời trước, đó mới đúng là chân thật báo hiếu.

Quả thật như vậy, ai có từng làm cha làm mẹ mới cảm hết công ơn khó nhọc của cha mẹ mình. Chín tháng gìn giữ thai nhi, theo dõi chăm nom từng giờ từng khắc. Con lớn dần trong thai Mẹ, từ lúc còn bé xíu cho đến khi biết cựa quậy, chuyển mình. Đến kỳ sinh nở, có lẽ trong tất cả những nỗi đau thể xác, chắc khó có đau nào bằng cái đau của người mẹ khi chuyển dạ sinh con. Thế mà khi con vừa lọt lòng, nỗi đau ấy dường như tan biến khi Mẹ nghe tiếng con khóc chào đời. Con khóc mà mẹ cười! Ôi, thế gian này có tình thương nào dâng trào hơn thế chăng?

Và từ đó, con lớn khôn, trưởng thành nên người trong xã hội. Con bao nhiêu tuổi, đếm lại bao nhiêu tháng ngày là bấy nhiêu cực khổ, thương yêu, nhung nhớ của mẹ cha. Có được mấy khi con làm cha mẹ hài lòng, vui sướng. Những phút giây an vui của con đem lại, ít ỏi như hạt cát giữa sa mạc mênh mông, so với những gì Cha Mẹ đã ban phát cho đàn con thân yêu.

Nếu con có phước còn có thời gian và cơ hội để chăm sóc cha mẹ khi tuổi già sức yếu. Ngược lại, con yểu mạng, ra đi trước, đã không được đền ân, còn làm cha mẹ thêm một lần đau buồn bạc tóc trước cảnh “tre già phải khóc măng non”. Những cảnh xót xa ấy thật không thiếu xung quanh chúng ta. Đó là chưa kể có những cảnh đời buồn hơn, khi cha mẹ còn sinh tiền, nhưng vì hoàn cảnh thế tình nào đó mà phận làm con không thể viếng thăm, chăm sóc hay còn vô tình để cha già mẹ yếu, trống vắng côi cút như chưa từng có mặt đứa con. Thế nhưng, dầu con có ra sao, bậc làm cha mẹ vẫn tha thứ, bao dung khi con tìm về bên cha, bên mẹ.

Đức Phật dạy rằng, giả sử một vai cõng cha, một vai cõng mẹ, đi giáp vòng hòn núi Tu Di, cũng không bao giờ đền đáp được công ơn cha mẹ. Đây chỉ tính công ơn cha mẹ trong một đời này, một khoảng thời gian ngắn ngủi của kiếp nhân sinh. Trong vòng sinh tử luân hồi bất tận, từ vô thỉ kiếp không thể tính đếm cho đến kiếp này, chúng ta đã sanh đi sanh lại qua biết bao thân mạng. Tùy vào nghiệp báo mà phải thọ thân trong khắp nẻo luân hồi. Kiếp này làm người, tất nhiên đã từ nhiều kiếp làm người, lúc đủ phước báu sinh lên cõi trời, nhưng cũng lắm lúc phải đọa súc sanh… Tuy nhiên kiếp nào chúng ta cũng có cha mẹ và phải thọ ân cha mẹ. Tình thương cha mẹ nào cũng dành cho con như nhau. Số kiếp luân hồi của chúng ta vô lượng vô biên, như vậy số cha mẹ mà chúng ta thọ ân cũng vô lượng vô biên. Vì thế, nên trong Kinh Phạm Võng, Đức Phật đã nhắc nhở hàng đệ tử rằng “hãy xem tất cả người nam từng là cha ta, hãy xem tất cả người nữ từng là mẹ ta” là vì thế.

Công ơn cha mẹ trong đời này và vô lượng đời trước nặng sâu như thế, thử hỏi làm con có cách nào đền đáp được chăng? Nếu dùng chút phương tiện vật chất với đôi lời thăm hỏi không khác xả giao, thậm chí có khi còn tệ bạc hơn so với chồng, với vợ mình, thì có thật gọi là đúng nghĩa của đền ân? Những lúc cha mẹ già yếu, đau bịnh, cho đến lúc sinh ly tử biệt, cái đau đớn từ thể xác cho đến tinh thần, làm con dù có muốn nhưng làm sao san xẻ, gánh chịu thay cho cha mẹ? Vô thường là chân lý, sinh già bệnh và chết là những điều bắt buộc phải xảy đến trong cuộc sống. Những lúc như thế, con đành phải bất lực cam tâm đứng nhìn. Lòng con thảo hiếu kính cha mẹ, thật không thể nào chịu đựng được phút giây đau đớn ấy.

Thái Tử Tất Đạt Đa vốn là người con hiếu thảo khó ai sánh bì, nhưng cũng vì động lực của sinh già bịnh chết, mà đành từ giã cha già, ngôi báu, gia đình, vợ con… ra đi tìm chân lý, tìm con đường không còn bóng dáng của khổ đau. Phải chăng hành động giữa đêm xuất gia vượt thời gian, không gian ấy, khởi đi từ động lực quá thương cha, thương mẹ, thương người thân nhất của mình? Tình thương vô bờ khiến Ngài không đành chịu khép mình quay theo nghiệp báo luân hồi. Cho dù có thương, có yêu đến mấy, giàu sang vật chất đến đâu, cũng đâu thể tránh được không già, không bệnh và không chết? Và chết là phút giây phân ly ai oán nhất giữa những người thương yêu ràng buộc với nhau. Càng thương yêu thì càng đau khổ. Chắc chắn với tình thương và sức thông minh vượt bực, Thái tử Tất Đạt Đa không thể chấp nhận vòng xoáy khắc nghiệt đó của sinh tử luân hồi. Tình thương bất tận mà cũng là động lực vô biên, khiến Ngài đã chứng ngộ, thành tựu bậc Toàn Giác. Ánh sáng giác ngộ của Ngài đã soi rọi Hoàng hậu Ma Da trên cung trời Đao Lợi, tiếp dẫn vua Cha Tịnh Phạn an lành đi vào cảnh Thánh, phổ độ kế mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề, công nương Da Du Đà La, hoàng tử La Hầu La và vô số hoàng thân quốc thích khác chứng nhập quả Thánh, vĩnh viễn thoát ly sinh tử.

Con đường đi đến giác ngộ và giải thoát phải từ Hiếu mà sinh. Chân thật Hiếu là thương cha, thương mẹ đang trôi lăn trong cảnh luân hồi. Không biết khi cái chết đến rồi, liệu cha mẹ có còn tiếp tục thọ hưởng thân người hay không, hay phải đọa lạc vào cảnh giới đau khổ nào khác? Thậm chí, nếu cha mẹ có chút phước đức, được sanh vào cõi trời, nhưng cũng có lúc thọ hết phước báu, phải quay trở lại đền nợ trả nợ, thật đau đớn biết chừng nào. Cha mẹ đời này thì vậy, còn vô số cha mẹ kiếp trước thì sao? Như vậy, chỉ có bản thân vượt thoát luân hồi, mới là cách duy nhất đền ân cứu giúp cha mẹ.

Đức Phật đã tìm đạo giác ngộ, ví như người đào giếng, chúng ta may mắn được thừa hưởng nguồn nước từ giếng mát trong ấy. Trong cơn khát của tham ái, vô minh, say sưa trong thương yêu, ràng buộc, Đức Phật chỉ mong mỏi đàn con hãy quay về uống dòng nước thanh lương. Chúng ta không cần phải đào giếng, vì giếng đã có sẵn. Đức Từ Bi đã dẫn đường, chúng ta chỉ có việc đi theo. Vậy mà do tầng tầng lớp lớp của vô minh, nên con đường tu niệm vẫn còn xa xôi quá.

Phát Bồ Đề Tâm là tâm tha thiết, tâm chân thành vì phổ độ chúng sanh, cầu đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác. Như vậy Bồ Đề Tâm là tâm quan yếu nhất, là điều cần thiết nhất của người tu đạo. Trong kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật từng nhấn mạnh “đánh mất Bồ Đề Tâm, dù làm mọi việc thiện cũng thành ma đạo”.

Đầu tiên, biểu hiện của Bồ Đề Tâm là tâm tinh tấn cầu học để đạt đạo giải thoát. Kế, thường khởi tâm đau xót, thương nhớ đến chúng sanh trong đó có cha mẹ ta, giờ này vẫn còn chìm đắm trong đau khổ luân hồi, chưa biết đến ngày nào thoát khỏi. Điểm đặc biệt để nhận thấy sức mạnh Bồ Đề Tâm trong từng con người, đó chính là nỗ lực cầu sanh về thế giới Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà. Nơi đó là nơi Đức Phật Thích Ca đã khuyên bảo, giảng dạy chân thành cho chúng ta trong thời mạt pháp. Đó là con đường gần nhất, dễ dàng nhất để hoàn thành tâm niệm thành Phật độ sanh. Hơn nữa, càng tin sâu Tịnh độ, càng cầu sanh Cực Lạc, thì càng chứng tỏ tâm niệm mong muốn xa lìa cõi khổ, mong muốn cùng các bậc Thánh chứng đạo giải thoát.

Tuy nhiên, để chân thành phát tâm Bồ Đề, cầu sanh Tịnh Độ, là một điều hoàn toàn không dễ. Quả thật như vậy, những bậc đạo sư thường hỏi, nếu cho chúng ta ít phút hoàn toàn nghỉ ngơi, vậy thử theo dõi xem, mặc dù thân yên lặng, nhưng tâm ta nghĩ gì? Phải chăng chắc chắn là lăn xăng chuyện này chuyện kia, và trong tất cả những điều suy nghĩ ấy, chỉ quay xung quanh một điểm cá nhân mình, cuộc sống mình, con mình, gia đình mình, danh dự mình, mình đang buồn, đang vui, đang khổ… tất cả đều là Mình. Thử mấy khi chúng ta nghĩ đến tha nhân. Thật hiếm khi chúng ta bức xúc, buồn khổ cho những cảnh đời đang khổ cực khác. Càng khó hơn, hiếm hoi hơn và thậm chí không có, khi khởi tâm dũng mãnh vì chúng sanh, hy sinh cá nhân, dấn thân cầu đạo cho tha nhân. Vì nếu có, thì giờ này chúng ta đã không cùng một cảnh giới này.

Một điều khác nữa, vì sao khởi tâm chân thành cầu sanh Tịnh Độ rất khó. Trong cuộc sống hằng ngày, cái bẫy của dục lạc, của tiền tài, danh vọng, sắc dục… thường mang hình dáng của lý tưởng, của ngọt ngào… trong khi tâm thức phàm phu thường quen với vô minh, không thể phân biệt. Tất cả những mật ngọt ấy làm chúng sanh say đắm, giữa phong ba bão táp mà tưởng biển lặng, sóng êm; giữa phù sinh tham ái mà tưởng an lạc, tịnh độ. Trước những bẫy sập ngũ dục ấy, khiến tâm thức phàm phu không thể nào đề khởi lòng mong muốn rời xa, không thể nào chấp nhận niềm tin cầu sanh Tịnh Độ. Chúng sanh tự gạt mình, chấp nhận bản ngã mình và tìm mọi cách để chấp nhận hoàn cảnh này, thế gian này đã là nơi tự tại, an lạc. Chính vì lẽ ấy, mà Đức Phật đã từng nói, niềm tin vãng sanh trong thời mạt pháp là “nan tín chi pháp”, là pháp khó tin khó hành.

Thế nhưng, tiếng gọi của chữ Hiếu dù có trong hoàn cảnh nào cũng đang thôi thúc chúng ta hành động. Tình thương của cha mẹ dành cho ta vẫn luôn là điều dễ thấy, dễ chấp nhận nhất cho dù chúng ta có lạc bến nơi đâu. Dầu con có bạc đầu, con vẫn là con của cha mẹ. Cha mẹ vẫn luôn mở rộng vòng tay, âu yếm đón con trở về. Vì thế, mà chư Phật đã ví đức Từ Bi của các Ngài vô luợng vô biên như tình Mẹ thuơng con. Dầu cho chúng ta có đau khổ lặn lội đến mấy, nhưng một khi đã phát tín tâm quay về, thì chưa bao giờ là muộn màng cả.

Tình thương của cha mẹ đang vẫy gọi ta, đang thúc dục ta tiến bước trên con đường tìm cầu giải thoát. Cho dù hoàn cảnh nào, khó khăn nào, cũng xin vì hết thảy chúng sanh trong đó có cha mẹ đời này và nhiều đời trước, trưởng dưỡng tâm Bồ Đề không bao giờ thối chuyển.

Đây đóa sen hồng vọng kính dâng
Ân cha nghĩa mẹ, ánh trăng ngần
Công ơn trời biển, chừ khôn tả
Bồ đề nguyện phát, báo thâm ân.

Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát.

Chùa Pháp Bảo, Sydney

Kỷ niệm mùa Vu Lan, PL 2553 – 2009

Thich nữ Giác Anh

(CÙNG TÁC GỈA / DỊCH GỈA)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/04/2013(Xem: 5558)
Mỗi năm cứ vào tiết thu, trời cao xanh ngắt, cỏ cây đổi màu, lá vàng lìa cành lác đác nhẹ rơi. Người con thảo cháu hiền không thốt nên lời xúc cảm nỗi nhớ niềm thương, chạnh lòng tưởng nhớ đến bậc thương thân cha mẹ. Tiếng chuông chùa chiều thu ngân nga từ xa vang vọng, hình bóng cha già mẹ yếu, hình ảnh người con hiếu hạnh muôn thuở Mục-Kiền-Liên lại rạng rỡ hiện về trong mùa Vu-Lan. Đó đây phảng phất khói trầm hương nghi ngút quyện lấy lời cầu nguyện của chư Tăng, âm vang lan dần cao ngất tỏa khắp mười phương thấm nhập vào các cõi hư không pháp giới.
11/04/2013(Xem: 5625)
Vu-Lan lại về. Vu-Lan về với người con Phật. Đặc biệt với người con Phật tha hương, những người con thảo cháu hiền còn nghĩ đến ân sâu nghĩa nặng của mẹ cha, thì nỗi nhớ niềm thương trong mùa Vu-Lan lại càng thắm thiết hơn bao giờ! Nhưng Vu-Lan mang ý nghĩa gì?
11/04/2013(Xem: 4945)
Rằm tháng bảy đối với đạo Phật mang ý nghĩa đặc thù, tưởng cũng nên lược nêu ra đây vài đặc điểm: 1) Ngày tự tứ: Khi đức Phật còn ở đời, ngày ngày Ngài đi hoằng pháp khắp đó đây, nhưng đến mùa mưa từ khoảng rằm tháng tư đến rằm tháng bảy, trong suốt thời gian ba tháng mùa hạ nầy, đức Phật và hàng đệ tử xuất gia đều tập trung ở một chỗ chuyên tâm tu học không ra ngoài.....
11/04/2013(Xem: 4976)
Nói đến Vu-Lan là nói đến hiếu. Nói đến hiếu, người ta liên tưởng đến hình ảnh ngài Mục-Kiền-Liên bưng bát cơm dâng mẹ, cơm hóa thành lửa. Sau đó cầu xin Phật chỉ dạy phương pháp báo hiếu, tôn-giả Mục-Kiền-Liên vâng theo lời Phật dạy thực hành cứu được mẹ là bà Thanh-Đề thoát kiếp ngạ quỷ đói khát khổ đau. Nên Vu-Lan mang ý nghĩa giải-đảo-huyền, tức là cứu tội khổ bị treo ngược.
11/04/2013(Xem: 5052)
Cha mẹ là nguồn sống của con. Người sống trên đời ai mà không do từ cha mẹ sanh thành, ai mà không được cha mẹ nuôi nấng lớn khôn? Cha mẹ đã trải dài năm tháng tốn hao biết bao là tâm huyết tiền của để lo cho con ăn ngon mặc đẹp mạnh khỏe nên người. Cha mẹ đã ngày đêm nhọc nhằn cưu mang quên ăn bỏ ngủ để vỗ về săn sóc con.
11/04/2013(Xem: 5012)
Hằng năm đến rằm tháng bảy, không ai bảo ai, mọi người đều cảm thấy nơi lòng sống dậy nỗi nhớ niềm thương, tưởng nhớ đến ông bà cha mẹ, làng nước quê hương, nhớ thương đến những ân nhân thương thân xa cách.
11/04/2013(Xem: 6490)
Mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy, đó đây những người con thảo cháu hiền, tự nhiên cảm thấy lòng bâng khuâng se thắt, man mác nỗi nhớ niềm thương. Lòng thương nhớ cha mẹ, thân bằng quyến thuộc hiện còn trên dương thế. Nỗi tiếc thương ông bà cha mẹ anh em đã qua đời. Để cho nỗi lòng thương nhớ được phần nào thâm trầm êm dịu, những người con thảo cháu hiền dâng trọn nén tâm hương khấn nguyện trong chiều thu Vu-lan thắng hội.
11/04/2013(Xem: 5113)
Mỗi năm đến rằm tháng bảy không ai bảo ai, thiên hạ đều biết đó là mùa Vu-Lan báo hiếu. Dù cho người đang sống ở chân trời góc biển, tha hương lưu lạc phương nào, hễ mỗi khi tiết trời thu về, là biết sắp đến rằm tháng bảy, ngày Vu-Lan báo hiếu, tự nhiên cảm thấy lòng nao nao bùi ngùi thương nhớ mẹ cha, quê nhà, làng nước và những người thương thân.
11/04/2013(Xem: 4802)
Mỗi năm đến rằm tháng bảy, dù những ai đó có đang sống ở nơi xa xăm chân trời gốc biển nào đi nữa, không ai bảo ai, nhưng mọi người con thảo cháu hiền đều cùng chung dòng tâm tưởng cảm thấy lòng mình nao nao se thắt trào dâng nỗi niềm bùi ngùi thương nhớ mẹ cha, nhớ nơi chôn nhau cắt rún, nhớ làng nước, nhớ nơi tiếng khóc chào đời. Không ai bảo ai, nhưng mọi cõi lòng con thảo cháu hiền đều tự biết mùa thu về, rằm tháng bảy, ngày Vu-Lan báo hiếu đến.
11/04/2013(Xem: 4899)
Mỗi năm đến rằm tháng bảy, mọi người con thảo cháu hiền không ai bảo ai, tự nhiên cảm thấy lòng mình lâng lâng nỗi niềm bâng khuâng tưởng nhớ đến ông bà cha mẹ. Đặc biệt là những vùng khí hậu bốn mùa rõ rệt, khi lá thu vàng lác đác nhẹ rơi, lại càng khơi dậy lòng người cái cảnh sanh ly tử biệt, nỗi nhớ niềm thương.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]