Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải - Tập 2

03/07/202111:43(Xem: 11737)
Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải - Tập 2

MẬT TÔNG KIM CANG THỪA CHÚ GIẢI
PHẬT GIÁO PHẠN HÁN VIỆT CHÚ NGỮ TOÀN THƯ
TẬP 2

Mat-Tong-Kim-Cang-Thua-Chu-Giai-Tap-2


Lời Thoại Đầu

             Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.

                     Kim Cang Thừa còn gọi là Bí Mật Đại Thừa, Kim cang là kim cang chử(chày kim cang), cũng là vũ khí cầm tay của Ấn Độ giáo Nhân Đà La Thần,Phật giáo xưng là Đế Thích Thiên(indriya), có ý nghĩa là kiên cố bất hoại và tối phá tất cả chướng ngại. Nên Kim Cang Thừa có quan hệ mật thiết với Ấn Độ giáo, vì phần đông dân Ấn Độ tin vào Ấn giáo, tin vào thần chú mantra , thực hành thiền định du già yoga, phô diễn thần thông. Trong kinh Vệ Đà còn nhiều ấn tích và lưu trữ như âm om và namah, nhiều cách cầu nguyện và thần chú. Sau 500 năm, Đức Phật nhập diệt, không có ai có thể chinh phục được Bà La môn giáo và thần dân Ấn độ, Đễ chinh phục và làm được điều này, là lưu truyền Phật giáo vào lòng dân ân độ, nhiều vị Bồ Tát đã y theo tiên tri của Đức Phật, mới khai bảo tạng mà Đức Thích Ca đã thuyết giảng, đã được lưu trữ trong Đại Bảo Tháp Đà La Ni, cho phù hợp với dòng truyền pháp hợp thời đại ấy,chính là các kinh đà la ni. Bảo tháp đó chứa đựng các kinh ấy, là do Kim Cang Thủ Bồ Tát viết lại các bộ kinh về mantra và sadhana(nghi quỹ) do Đức Phật thuyết.

     Về phương diện kinh điển, cấu trúc các bộ kinh chú, cũng có một số phần tương đồng với bà la môn giáo. Nhưng về phương diện ý nghĩa và thực hành pháp thì khác nhau rất rõ ràng. Bà la môn là quay về với tự thể của đấng tạo hóa là Tự Tại Thiên.Còn về Phật giáo mật thừa là quay về với bản tánh không bẩm sanh là đại ấn, thông qua phương tiện thần chú thông linh, tổng nhiếp thân khẩu ý tam mật thanh tịnh,kích thích tâm giác ngộ đã có, trở lại tâm tánh bản nguyên vô sanh vô diệt, bất khứ bất lai, thành tựu Phật quả. Đây cũng là Tổng chỉ của Kim Cang Mật Thừa nói chung, còn các thừa khác cũng như vậy. Nên trong Mật Thừa cũng có Đại Thừa và Thanh Văn Thừa, chỉ khác nhau ở cách trình bày giáo lý, giống nhau cùng một điểm đến là thành Phật.

      Về phương diện bí mật, đây là pháp môn bất khả tư nghị, bất khả đắc,các câu thần chú thông linh nhìn nó thì đơn giảng và khô khan, nhưng trong cấu trúc câu thần chú, và nghĩa thì thậm thâu sâu lắng. Chỉ cần một chữ om, thì có thể thâu cảm tam thiên đại thiên thế giới, và tổng nhiếp tất cả mười phương chư Phật.Như chữ hùm, có thể làm cho tất cả vị vua trời và thần quỷ quy phục,như hùm lửa năng trừ thiêu đốt tất cả tội từ vô thỉ đế hiện tại,hùm nước có uy lực làm thần long phun nước, mưa xuống mọi nơi khô hạn,hùm đất thì làm cho phú quý,cuộc đời tài vật sung túc…………………Ai muốn đạt được những lăng lực ấy, thì phải qua một vị Kim Cang Sư (thầy) truyền dạy, và thực hành với những pháp môn và nghi thức đã được chỉ dạy. Tôi xin nói thật phần đông đệ tử học pháp bây giờ, không ơn không nghĩa, nói nặng là không y giáo phụng hành. Họ học được một tí gì đó, tự phụ tự đắc ,cống cao ngạo mạng, nghĩa lý các thừa thì không dung thông, ngôn ngữ Phật học thì không thông, nói thì nhiều thực hành thì không có………Nên nhiều Vị Cao Tăng ,Kim Cang Sư đã đem đi tất cả sự tu hành thành tựu một đời về cõi Niết Bàn. Họ không phải là ích kỷ, mà con người học trò bây giờ, họ không có tâm(đạo đức), họ biến pháp biến thành kiến thức, hay là một món hàng kinh doanh, làm lợi ích cho chính họ, không vì lợi ích cho mọi người sau này. Nên ai muốn học Kim Cang Thừa, thì phải phát thề nguyện, kính Thầy như kính Phật, nhờ có Thầy chúng ta mới biết Phật Pháp Tăng. Thầy là Thầy của các vị Phật trong ba đời, nên người đệ tử phải quy kính và phụng dưỡng Thầy như cha mẹ chính mình. Đây là đạo đức của Phật giáo nói chung và Kim Cang Thừa nói riêng, hiện nay chúng ta đang mất dần nền căn bản đạo đức ấy!

      Mật Tông Kim Cang Thừa chú trọng về giáo lý khẩu truyền,là thầy truyền lại cho trò bằng khẩu quyết(lời nói).Giáo lý đức Phật dạy thâm sâu vô tận như đại dương không bờ bến,người học pháp khó mà đốn nhận được,mà chỉ có vị Thầy họ đã học và tích lũy kinh nghiệm thực hành pháp thành tựu.Những tinh hoa khẩu quyết của vị thầy như ngọn đèn soi sáng trí u ám của đệ tử,làm bừng sáng trí tuệ,chỉ dẫn người đệ tử nhập môn theo thứ tự tu hành ,sẽ nhanh chóng thành tựu.

       Về phương diện tu trì, Mật Tông Kim Cang Thừa có những quy luật về đạo đức và giới nguyện(samaya) tu hành. Người nhập đạo,phải quy y Kim Cang Thượng Sư(thầy), quy y Tam Bảo Phật Pháp Tăng, thọ nhận 5 giới; 8 giới; thập thiện giới ;250 giới; cho đến Bồ Tát giới. Giới nguyện là phần quang trọng không thể thiếu,  như kim chỉ nam cho sự thành tựu, những phát nguyện như:tâm từ bi hỷ xả cứu chúng sanh;không não hại chúng sanh;không phản Thầy phụ bạn; không buôn bán pháp trục lợi(như lập đàn bao nhiêu tiền?cúng bao nhiêu tiền?………..),không sử dụng tà pháp (thư ;yếm) hại người và chúng phi nhơn (phá đình miếu) ;không cống cao ngạo mạng, tự phụ ta đây; nuôi dưỡng tâm đại bi đức hạnh và phát triển trí tuệ thành tựu chánh giác. Người hành trì không tuân theo giới nguyện này thì sẽ bị nhiễm ô, làm cho những Hộ Pháp sẽ tránh xa,hóa thần Bổn Tôn không xuất hiện,mạn đà la(đàn tràng)bị ô uế,người thực hành rỗng không,không thành tựu.

      Người tu Kim Cang Thừa phải biết phân giờ dương âm ,như 4 giờ sáng đến 1 chiều là giờ dương ,là giờ của Chư Phật Bồ Tát Thánh Chúng Chư Thiên Thần vận hành.1 giờ chiều đến đầu 4 giờ sáng là giờ âm,là giờ của ma vương quỷ vương và tất cả loại ma quỷ phi nhơn vận hành. Và giờ chánh dương là 11giờ trưa đến 12 giờ, là Chư Phật Bồ Tát Thánh Thần thọ thực. Giờ chánh âm 12 giờ khuya đến 1 giờ sáng Thiên Ma Quỷ Vương hồi sanh, là chúng mạnh nhất. Theo triền thống Đạo Gia Trung Quốc và các thầy luyện bùa chú, quan niệm rằng luyện tu thiền vào lúc 12 giờ khuya đến 1 giờ khuya, là giờ âm dương giao hợp,sẽ có uy lực thần thông. Đây là một sự ngộ nhận sai lầm lớn, vì tất cả loại quỷ ma điều tồn tại dưới dạng khí, khi hành thiền hô hấp không khí vào giờ này, quỷ ma vương sẽ theo đường hô hấp đi vào thẳng người đó, chiếm đạt tâm thức và các huyết mạch khác (bát mạch cửu khiếu). Người đó có thần thông trong tiên tri, cầu đảo bùa chú ấn lệnh và sai âm binh ma quỷ phi nhân, không phải là thần thông của bản thân họ mà chính là thần thông của ma vương quỷ vương ẩn hình trong người đó. Lúc đó họ làm thầy rất giỏi,làm đâu thắng đó ,nhưng chỉ một lúc, và để lại nhiều di chứng …như bệnh tật và chướng ngại cho mọi người. Lúc ấy, trên Chư Phật Bồ Tát đã nhìn thấy con ma quỷ mượn xác người gây hại cho chúng sanh trong người ấy rồi, liền sai Kim Cang Thần đến nơi,thâu bắt ma quỷ ấy,bỏ vào núi Thiết Vi,người ấy làm thầy hết linh……….., và thọ nhận nhân quả cho những hành động đã làm.Vì vậy Quý vị nên tham thiền quán tưởng niệm kinh chú vào giờ dương là tốt nhất trên có chư Phật Bồ Tát

    Thánh Chúng hộ trì. Vào giờ âm chỉ có tụng kinh chú và niệm Phật to tiếng, cho pháp giới âm linh nghe kinh tu tập, tuyệt đối không hành thiền quán tưởng vào giờ âm, dù tu chánh đạo cũng thành tà đạo, vì giờ này chư Phật Bồ Tát Thánh Chúng an nghỉ, không hộ trì,ma vương quỷ vương sẽ chiếm tâm thức,ngay cả người tu hành chân chính cũng không tránh được, nếu người đó tu sai giờ. Người tu sai giờ, tâm tính thay đổi bất thường,s ẽ đi lầm đường,tham tiền của quý……..vv…..gây nhiều lầm lỗi trái đạo.Đây là khẩu quyết rất quang trọng,quý vị cần nhớ lấy.

   Vào thời đại đen tối ,Bồ Tát Liên Hoa Sanh duy ngôn:Thiết điểu phi không(máy bay bay vào không trung), thiết long nhập hải(tàu ngầm đi trong lòng đại dương). Thế giới nhân sanh khủng hoảng, chiến tranh thiên tai bệnh dịch trùng trùng sanh khởi,sự tàn phá dữ dội thiên nhiên của con người, với bằng tay khoa học hiện đại. Sự phá vỡ cam kết các thệ nguyện của chúng sanh đối với các đấng thiêng liêng thần bảo hộ. Như thần biển,thần sông, thần núi, thần cây, thần lửa và thần gió, họ không đồng lòng thủ hộ con người, khi con người tàn phá họ, …….như phá rừng phá núi, khai thác khoáng sản…..vv…….Vậy thế giới hôm nay, chúng ta phát triển hoa lệ, nhưng tàn phá thiên nhiên là không bù đắp được, nên chúng ta phải chấp nhập những tai họa thiên nhiên mà chính chúng ta tạo ra.

       Hiện trạng thế giới hôm nay phủ đầy sắc khí u ám,đây là nhân chứng cho chúng ta,đã phá đi các samaya thệ nguyện minh ước. Pháp môn Kim Cang Thừa là sự liên kết thần lực giữa con người với các Đấng Bảo Hộ, qua những cầu nguyện cam kết thệ nguyện samaya, qua những câu thần chú làm phương tiện kết nối(thông linh), qua âm thanh thần bí làm những minh ước, qua Hóa Thần Bổn Tôn làm cho những vị Thần Bảo Hộ được an vui, qua mạn đà la(mandala) rửa sạch nghiệp chướng của thế giới chúng sanh đã tạo. Chúng ta phải cố gắn tu tập, qua con đường thực hành giáo pháp,đi lên với đạo đức. Cầu nguyện Các Đấng thiêng liêng, Chư Phật Bồ Tát và Các Thần Kim Cang Hộ Pháp Bảo Hộ , đánh tan những che chướng, dập tắt các chướng nạn,ngăn chặn các thế lực ác, sẽ làm cho thế giới an vui hòa bình, chúng sanh được hạnh phúc.

Kính lời
Kim Cang Sư
Tk.Thích Linh Quang
pdf-icon

Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải - Tập 2



***
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/02/2011(Xem: 12866)
Hết lòng trân quí và ghi nhớ ân đức sâu dầy của sư Sán Nhiên đã biên soạn và hiệu đính tập sách này, cũng như đã hoan hỷ cho phép Hội Thiện Đức ấn tống nhằm góp phần vào công cuộc hoằng hóa Phật pháp đem đến lợi lạc cho nhiều người. Hội Thiện Đức xin biết ơn sự ủng hộ tinh thần và tán thán sự phát tâm đóng góp tịnh tài của quý Phật tử và ân nhân cho công trình ấn tống này. Xin tri ân chị Thân Thục & anh Thân Phúc đánh máy tập sách; anh Thân Hòa trình bày sách bao gồm thiết kế bìa sách; anh Chúc Giới, anh Thiện Tánh, cùng anh Chúc Tùng cung cấp tài liệu và hình ảnh; Tâm Hân Huệ thỉnh ý sư Sán Nhiên; chị Tâm Thiện, chị Chơn Hạnh Bạch, chị Diệu Âm, Thân Hồng, cùng anh chị Lê Lộc (Lancaster, PA) phụ giúp sổ sách, liên lạc, và kêu gọi cho quỹ ấn tống.
22/01/2011(Xem: 14679)
Đại Hội Khoáng Đại kỳ 04 được tổ chức tại Chùa Pháp Hoa, Nam Úc
10/01/2011(Xem: 52086)
Website Liên Kết từ Trang Nhà Quảng Đức
13/12/2010(Xem: 10313)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
10/12/2010(Xem: 11654)
Tập sách này gồm 2 bài giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV, được ngài Rajiv Mehrotra – đệ tử của đức Đạt-lai Lạt-ma – trực tiếp ban cho chúng tôi cùng với 4 bài giảng khác nữa, kèm theo một văn bản cho phép chuyển dịch tất cả sang Việt ngữ và phát hành ở dạng song ngữ Anh-Việt. Phát tâm Bồ-đề là bài giảng được chúng tôi hoàn tất trước tiên và được chọn làm tựa đề cho tập sách này vì tính phổ quát của nó đối với mọi người Phật tử. Bài giảng này có nội dung khuyến khích và hướng dẫn việc phát tâm Bồ-đề, một yêu cầu tối thiết yếu đối với bất cứ ai muốn bước chân vào con đường tu tập theo Phật giáo Đại thừa.
09/11/2010(Xem: 7288)
Các Sa-di-ni thân mến, Chọn “đi tu” làm Sa-di-ni (P. Sāmaṇeri, S. Śrāmaṇeri, 沙彌尼), sau đó, làm Thức-xoa (P. Sikkhamānā. S. Śikṣamānā, 式叉摩那),[1] Tỳ-kheo-ni (P. bhikkhuni, S. bhikṣuṇī, 比丘尼), các con đang đi theo lý tưởng cao cả và hạnh nguyện độ sinh của đức Phật, các bậc Bồ-tát, các Thánh tăng trong lịch sử hơn 2.600 năm của đạo Phật. Đó là diễm phúc lớn của các con và gia đình các con ở đời này. Sa-di-ni có nghĩa đen là “Sa-môn tử” (沙門子), tức người đang tập hạnh làm Sa-môn (P. Sāmaṇa, 沙門). Các Sa-di-ni tuổi thiếu nhi được gọi là “cô tiểu” ở miền Nam, hay “cô điệu” ở miền Trung hoặc “sư bác” ở miền Bắc. Sa-môn là từ chỉ cho các tu sĩ vô thần tại Ấn Độ trong thời cổ đại, không chấp nhận đạo Bà-la-môn đa thần, không chấp nhận Thượng đế, không chấp nhận số phận, cách tu tín ngưỡng và ép xác của đạo Bà-la-môn. Đạo Phật do đức Phật Thích-ca sáng lập là một trong các trường phái Sa-môn, mở ra con đường tỉnh thức, giác ngộ và giải thoát cho nhân loại khỏi tất cả nỗi khổ và niềm đau.
08/10/2010(Xem: 5310)
Truyện thiền không những có tính tôn giáo, triết lý mà còn có giá trị văn học cao. Nó mang ý nghĩa siêu hình, với hình thức ngụ ngôn, bố cục giản lược, trào lộng, kết thúc đột ngột, lại dùng những phương pháp tu từ đặc biệt như điệp ngữ, nghịch lý, đa nghĩa, chữi để mà khen, buông thỏng nửa chừng không kết thúc, lấy câu hỏi để trả lời câu hỏi vv…Đó là đặc sắc của truyện thiền. Cho nên đọc chuyện thiền là vừa học đạo[1] vừa thưởng thức một tác phẩm văn chương kỳ thú.
20/09/2010(Xem: 6373)
ĐứcThế Tôn thường nói: “Cái gì vô thường là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì vô ngã cần phải như thật quán với chánh trí tuệ là 'Cái này khôngphải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã củatôi.'” Một câu hỏi được đặt ra: Tại sao tư tưởng vô ngã lại được diễn đạt như là hệ quả từ thực tế khổ? Lý do để giải thích có thể rút ra từ Tiểu kinh Saccaka (Cūḷasaccaka Sutta), Trung Bộ kinh... Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
28/06/2010(Xem: 19036)
Bản dịch Việt Bích Nham lục được thực hiện với một tấm lòng tôn kính, cảm phục tài đức của giáo sư Wilhelm Gundert (12. 4. 1880-3. 8. 1971). Vì W. Gundert đã giới thiệu tường tận về tác phẩm độc nhất vô nhị này nên dịch giả người Việt hạn chế tối đa những lời dư thừa, chỉ đề cập đến nguyên tắc dịch, một vài nét đặc biệt cũng như kĩ thuật được áp dụng trong bản dịch Việt:
08/01/2009(Xem: 12635)
Trong tập sách này, tác giả Nguyễn Tường Bách trình bày lại các chặng đường quan trọng trong quá trình phát triển của ngành vật lý và triết học về khoa học tự nhiên trong hơn 25 thế kỷ qua. Tác giả chú trọng đặc biệt đến sự phát triển của hai lý thuyết vật lý quan trọng nhất trong thế kỷ 20, thuyết tương đối và thuyết lượng tử cũng như ý nghĩa triết học của chúng. Chính những lý thuyết này sẽ giúp bạn đọc hiểu được mối liên hệ với triết học và tư tưởng Phật giáo ở phần sau. Vẫn xoay quanh những câu hỏi muôn đời của loài người "vũ trụ là gì, từ đâu mà có?", "thực tại trước mắt chúng ta thực chất là gì?", "bản chất của thực tại vật chất là gì?"…, tác giả dẫn dắt chúng ta theo một hành trình từ vật lý đến triết học rồi gõ cửa và dừng chân ở tư tưởng Phật giáo để lý giải thế giới hiện tượng. "Cuộc sống là một dòng tâm thức bất tận, không đầu không đuôi… Hãy đơn giản hóa một đời thành một ngày. Đời này của chúng ta như là ngày hôm nay…"
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567