(Tương đương với phẩm cùng tên là “Căng Già Thiên”,
phần giữa quyển 331, Hội thứ I, ĐBN)
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le
Tóm lược:
Bấy giờ, trong chúng có một Thiên nữ tên Căng Già Thiên từ tòa đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo áo che vai trái, gối hữu chấm đất, chắp tay cung kính thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Con sẽ tu đủ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Tịnh độ được con trang nghiêm cũng giống như cõi Phật mà hôm nay đức Thế Tôn đã nói cho đại chúng nghe trong Kinh Bát nhã Ba la mật thẳm sâu này, trong đó mọi thứ đều viên mãn.
Sau khi nói xong, Căng Già Thiên liền đem đủ loại hoa vàng, hoa bạc, các loài hoa mọc trên cạn hoặc dưới nước, đồ trang sức và một bộ thiên y màu vàng kim hết lòng cung kính rải dâng lên Phật. Nhờ thần lực Phật các thứ đó bay lên không trung xoay quanh bên phải, hóa thành đài báu có bốn trụ và bốn góc ở trên đảnh Phật. Đài ấy được trang trí xinh đẹp, rất đáng ưa thích. Đấy là Thiên nữ đem căn lành này cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bấy giờ, Thế Tôn biết Thiên nữ kia chí nguyện sâu rộng bèn mỉm cười. Thường chư Phật khi mỉm cười thì có ánh sáng đủ màu sắc (hào quang) từ miệng chiếu ra. Nay Phật cũng vậy, từ miệng Ngài phóng ra đủ loại ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tím, xanh biếc, xanh lục v.v… chiếu khắp mười phương vô lượng, vô biên thế giới chư Phật, rồi trở lại cõi này, hiện đại thần biến xoay quanh Phật ba vòng, rồi nhập vào đảnh Phật(2).
Khi ấy, A Nan Đà thấy nghe rồi, từ tòa đứng dậy, đỉnh lễ chân Phật, kéo áo che vai trái, gối hữu chấm đất, chấp tay cung kính thưa:
- Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào mà Phật mỉm cười? Chư Phật mỉn cười chắc có nhân duyên?
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Khánh Hỷ rằng:
- Thiên nữ đây tức là người thọ thân nữ sau cùng. Xả thân này rồi bèn thọ nam thân, tận đời vị lai chẳng làm nữ nữa. Từ đây chết rồi sẽ sanh qua cõi Phật Bất Động ở phương Đông, một cõi Phật rất đáng ưa thích. Ở chỗ Phật đó có hiệu là Kim Hoa, siêng tu Bồ Tát hạnh.
Khánh Hỷ! Phải biết Kim Hoa Bồ Tát từ thế giới Phật Bất Động chết rồi, lại sanh phương khác, từ một cõi Phật đến một cõi Phật cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn. Sanh ở đời chỗ nào thường chẳng lìa Phật, như vua Chuyển luân từ cung điện này đến cung điện khác, vui khoái hưởng lạc, cho đến mạng chung chân chẳng đạp đất. Kim Hoa Bồ Tát cũng lại như thế, từ một nước Phật đến một nước Phật cho đến Vô Thượng Bồ đề, ở trong đời thường thấy chư Phật, hằng nghe Chánh pháp, tu Bồ Tát hạnh.
Bấy giờ, Khánh Hỷ thầm khởi nghĩ: Kim Hoa Bồ Tát khi làm Phật cũng sẽ tuyên nói Bát Nhã thẳm sâu; số lượng Bồ Tát trong hội ấy có nhiều bằng số Bồ Tát trong hội Phật hiện nay chăng?
Phật biết ý liền bảo Khánh Hỷ rằng:
- Như vậy! Như ngươi đã nghĩ! Kim Hoa Bồ Tát khi làm Phật cũng vì chúng hội tuyên nói Bát nhã Ba la mật thẳm sâu như thế. Chúng Bồ Tát hội kia, số lượng cũng như chúng hội Bồ Tát của Phật hôm nay.
Khánh Hỷ! Phải biết Kim Hoa Bồ Tát khi làm Phật, đệ tử xuất gia số ấy rất nhiều chẳng thể xưng kể. Nghĩa là chẳng thể đếm hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc trăm ngàn thảy. Chỉ có thể nói tổng số chúng vô lượng vô biên trăm ngàn trăm ức muôn ức.
Khánh Hỷ! Phải biết Kim Hoa Bồ Tát khi thành Phật, cõi kia không có nhiều thứ tội lỗi, như trong Kinh Bát nhã Ba la mật đã nói.
Bấy giờ, Khánh Hỷ lại thưa Phật rằng:
- Thiên nữ này trước đây vào thời đức Phật nào đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, trồng các căn lành hồi hướng phát nguyện, mà nay gặp Phật cúng dường cung kính mà được trao ký Bất thối chuyển?
Phật bảo Khánh Hỷ:
- Thiên nữ đây ở thời Phật Nhiên Đăng đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, trồng các căn lành hồi hướng phát nguyện, nên nay gặp Ta cúng dường cung kính mà được nhận ký Bất thối chuyển.
Khánh Hỷ! Phải biết Ta ở quá khứ chỗ Phật Nhiên Đăng đem năm cọng hoa dâng rải Phật, hồi hướng phát nguyện. Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết Ta căn lành đã thành thục, liền trao ký cho Ta: “Người đời vị lai sẽ được làm Phật, hiệu là Năng Tịch, cõi danh Kham nhẫn, kiếp hiệu là Hiền”. Bấy giờ, Thiên nữ cũng đang ở đó thấy Phật Nhiên Đăng trao ký cho Ta, vui mừng khôn xiết, liền đem hoa vàng dâng rải lên Phật, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, trồng các căn lành, hồi hướng phát nguyện rằng: “Tôi đời sau đối trước Bồ Tát này khi Ngài thành Phật, sẽ trao ký đại Bồ đề cho tôi”. Do duyên đó nên nay Ta trao ký cho thiên nữ này.
- Chính Thiên nữ đây từ lâu vì Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề trồng nhiều cội đức, nay được thành thục. Vì vậy, nên được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trao ký cho.
Phật bảo:
- Khánh Hỷ! Như vậy! Như ngươi đã nói! Thiên nữ Căng Già đây từ lâu vì Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề trồng nhiều cội đức, nay đã thành thục, nên Ta trao ký sở cầu Bất thối chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như cô ấy mong muốn.
Thích nghĩa:
(1). Căng Già Thiên, Kinh MHBNBLMĐ, quyển thứ 20 còn gọi là “Hằng Già Đề Bà”: Một Thiên nữ chứng kiến ngày Phật Nhiên Đăng trao ký cho Phật Thích Ca (lúc đó đang tu Bồ Tát đạo) và ngay đó phát nguyện, khi nào Bồ Tát này (tức Phật Thích Ca) thành Phật thì sẽ trao ký cho mình. Nhờ tu sáu Ba la mật, thành thục hữu tình, thanh tịnh Phật độ, trồng nhiều công đức thiện căn, lại đem các công đức ấy ban cho tất cả hữu cùng chung hồi hướng Vô Thượng Bồ đề. Nhờ công đức thiên căn thành thục viên mãn nên Phật Thích Ca Mâu Ni thọ ký cho Thiên nữ ấy. Thiên nữ có tên là Căng Già, tên này không được phổ thông lắm, nên kinh sách ít nói đến.
(2). Đảnh Phật: Trên đỉnh đầu của đức Phật có nhục kế (khối u bằng thịt như búi tóc). Đó là tướng tốt thứ 32 của Chư Phật, chỉ có Phật mới có. Các hào quang thâu phát nhiều nhất ở chỗ này.
Lược giải:
Kinh Đại Bát Nhã đột ngột đưa ra một nhân vật tên là Căng Già Thiên hay Hằng Già Đề Bà, được Phật thọ ký thành Như Lai Chánh Đẳng giác. Sự kiện nầy có lẽ làm độc giả ngạc nhiên. Nhân vật nầy không phải là một Bồ Tát đại từ đại bi như đức Quán Âm, đại trí như Văn Thù Sư lợi, đại hạnh như Phổ Hiền Bồ Tát… Nhân vật nầy cũng không phải là đại đệ tử trí tuệ như Xá Lợi Phất, thần thông biến hóa như Mục kiền Liên, “người giải Không” bậc nhất như Tu Bồ Đề, người có trí nhớ siêu việt như Ngài A Nan Đà hay biện tài vô ngại như Phú Lâu Na v.v… thường xuất hiện trong nhiều kinh điển Phật học. Nhân vật nầy chỉ là một người bình thường trong số những người bình thường khác.
Tuy nhiên, Căng Già Thiên biết chứa nhóm thiện căn, tích tụ công đức, lại phát nguyện rộng lớn tu hành sáu phép Ba la mật nên được Phật thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Điều đó chứng tỏ bất cứ ai tu hành lục Ba la mật và tất cả pháp mầu Phật đạo, chứa nhóm thiện căn, tích tụ công đức, phụng thờ Thiện hữu tri thức, cúng dường nhiều đời Phật… đều có cơ hội được thọ ký như trường hợp của thiên nữ nầy.
Phẩm nầy không phải là một phẩm đặc biệt, nhưng trở thành đặc biệt. Thiên nữ này bình thường cũng giống như trăm ngàn thiên nữ khác nhưng được thọ ký thành Phật vì chí nguyện sâu rộng, phát Bồ đề tâm, tu hành lục độ vạn hạnh,trồng nhiều cội phước, nay đã thành thục nên được Phật thọ ký. Điều đó có nghĩa ai cũng có phần nếu tiến tu như thiên nữ này.
Phần thưởng Giác ngộ to lớn nhất không phải dành riêng cho Phật, mà dành riêng cho tất cả chúng sanh kể từ khi Phật chứng ngộ. Phật đã trao chìa khóa đó cho tất cả chúng sanh kể từ 26 thế kỷ trước.
Tu tất cả các pháp mầu Phật đạo nhất là lục Ba la mật, lại tịnh tu phạm hạnh rồi một ngày nào đó sẽ có cơ hội, không thể ngồi hả miệng chờ sung rụng, phải cần tu khổ hạnh, đào xới bới vỡ mới có miếng ăn!
Phát Bồ đề tâm, tu Bồ Tát đạo, tích tụ thiện căn công đức, tôn thờ bạn lành, cúng dường cung kính tất cả chư Phật, thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, giáo hóa hữu tình không hề mệt mỏi. Đó là cơ hội!
Bởi những lý do đó nên mới có phẩm “Căng Già Thiên” này. Đây không phải là một trường hợp đặc biệt mà trở thành đặc biệt như đã nói trên, nêu gương cho bất cứ ai có nguyện ước muốn trở thành Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề để hóa độ chúng sanh./.
Trong những thành tựu ngày càng sâu sắc hơn của khoa học hiện đại là sự khám phá rằng thân và tâm không tách biệt và độc lập, nhưng đúng hơn là cùng một thực thể được nhìn từ hai góc độ khác nhau. Descartes đã sai lầm trong việc tách rời giữa thân và tâm. Và y học phương Tây theo sau những người đi trước, đã có sai lầm tương tự trong việc xem nhẹ ý nghĩa những trạng thái tinh thần của bệnh nhân đối với điều kiện sức khỏe của họ.
Sự rèn luyện cốt lõi nhất trong Phật giáo, và cho chủ đề này trong bất kỳ con đường tâm linh nào đều là “phương tiện thiện xảo”, nhờ đó hành giả có khả năng chuyển hóa mọi khía cạnh cuộc sống hàng ngày của họ thành rèn luyện tâm linh. Rèn luyện tâm linh là những luyện tập làm giải thoát tâm thức khỏi sự bám chấp mãnh liệt và lực khao khát thúc đẩy của chúng ta. Sự rèn luyện tâm linh xoa dịu đau khổ tạo ra bởi quan điểm chật hẹp, cứng rắn và những cảm xúc hỗn loạn, thiêu đốt của chúng ta.
Vâng theo lời dạy của Thầy Lama Zopa Rinpoche, chúng con dịch cuốn sách này ra tiếng Việt với ước muốn chia sẻ những lời dạy của Thầy đến bạn bè, tất cả những ai quan tâm tu tập Phật pháp, đặc biệt là trau giồi Bồ-đề tâm để chữa lành tận gốc mọi bệnh tật của cả thân và tâm.
Chúng con kính dâng lòng tôn kính và tri ân sâu xa lên Thầy Zopa Rinpoche, một Kadampa trong thời hiện đại, Người là nơi nương tựa của chúng con mãi mãi, Người dạy chúng con đi vào đường tu giác ngộ.
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà.
Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
Đặc tính: Tự thể của thân trung ấm mang 5 đặc tính:[38]
1. Nó có đầy đủ các giác quan.
2. Vì nó sinh ra một cách tự nhiên, tất cả các chi (tay chân) chính và phụ của nó sinh ra đầy đủ đồng thời với thân.
3. Vì nó có thân vi tế nên không thể bị tiêu diệt dù bằng vật cứng như kim cương.
4. Trừ nơi tái sinh của nó như là trong dạ con, bụng của người mẹ, ngoài ra không vật gì có thể cản được thân trung ấm đi qua, dù là núi non, hàng rào v.v...
Việc tìm hiểu về các tông phái khác nhau trong đạo Phật luôn là điều cần thiết đối với hầu hết những người học Phật.Tập sách này là một công trình biên soạn công phu, có hệ thống, tuy ngắn gọn nhưng khá đầy đủ để mang lại một cái nhìn tổng quan về các tông phái trong đạo Phật, cũng như giúp người đọc nắm hiểu sơ lược về tôn chỉ và đặc điểm chính yếu của từng tông phái.
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”.
Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
Sau khi lăn lóc nơi trần gian thế sự, mỏi gối chồn chân vì bã lợi danh, chìm nổi nơi bể ái sóng tình, rồi ngồi nghĩ lại cái đời mình, bao người lấy làm ngao ngán! Bấy giờ tưởng đạo lý nhà Phật với mình cũng như chiếu bông gối dựa đối với người buồn ngủ, tha hồ mà ôm ấp lấy!
Sức sống của một nền đạo lý từ bi, trí tuệ như Đạo Phật thì chỉ có thể là sức sống văn hóa. Bởi vì, chỉ trên bình diện văn hóa, hoặc ở những hình thái sống động của đời sống hoặc thâm trầm trong tâm hồn con người, nguồn suối từ bi, trí tuệ mới có thể thẩm thấu, chan hòa như đã thẩm thấu chan hòa trong đời sống và tâm hồn của phần lớn các dân tộc Á Đông.
Tuy là những tích xưa, chuyện cổ, nhưng đối với người có óc quan sát sẽ rất là bổ ích, vì trong ấy chứa đựng những tư tưởng cao xa thâm thúy về triết lý đạo đức.
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn. Sau khi xem những chuyện tích được sưu tập trong phần này, hy vọng độc giả sẽ có thể dễ dàng thấy được những ý nghĩa đạo lý đã có tự ngàn xưa, được ghi lại qua những câu chuyện rất thú vị, làm cho chúng ta vui thích.
Tín đồ Phật giáo tin rằng có một con người thật được tôn xưng là đức Phật, hay Đấng Giác Ngộ, đã nhận ra được trí huệ sáng suốt xa xưa, hay nói đúng hơn là từ vô thủy, của con người. Và ngài đã làm được điều này ở Bihar, Ấn Độ, vào khoảng từ năm 600 cho đến 400 trước Công nguyên – thời gian chính xác không được biết.
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.