(Tương đương với phần sau phẩm “Ma Ha Tát”, quyển 49, Hội thứ I, ĐBN)
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước
Tóm lược:
Bấy giờ, Xá Lợi Tử hỏi Mãn Từ Tử rằng: Sao là Bồ Tát Ma ha tát khắp vì lợi vui các hữu tình nên nương Đại thừa?
Mãn Từ Tử nói: Xá Lợi Tử! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, tuy nương tựa bố thí Ba la mật mà chẳng đắc bố thí, chẳng đắc kẻ thí, kẻ thọ, của thí và pháp bị ngăn.Tuy nương tựa tịnh giới Ba la mật mà chẳng đắc tịnh giới, chẳng đắc kẻ trì giới và kẻ phạm giới cùng pháp bị ngăn.Tuy nương tựa an nhẫn Ba la mật mà chẳng đắc an nhẫn, chẳng đắc kẻ năng nhẫn và cảnh sở nhẫn cùng pháp bị ngăn.Tuy nương tựa tinh tấn Ba la mật mà chẳng đắc tinh tấn, chẳng đắc kẻ tinh tấn hay kẻ lười nhác cùng pháp bị ngăn.Tuy nương tựa tĩnh lự Ba la mật mà chẳng đắc tĩnh lự, chẳng đắc người tu định, kẻ tán loạn, chẳng đắc định cảnh cùng pháp bị ngăn.Tuy nương tựa Bát nhã Ba la mật mà chẳng đắc Bát Nhã, chẳng đắc kẻ có trí huệ, kẻ ngu si, chẳng đắc pháp thiện, bất thiện, vô ký, chẳng đắc pháp thế gian xuất thế gian, chẳng đắc pháp hữu lậu vô lậu và pháp bị ngăn.
Xá Lợi Tử! Đấy là Bồ Tát khắp vì lợi vui các hữu tình mà nươngvào Đại thừa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu Bồ Tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, vì khiển tu nên tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; tu ba giải thoát môn, tu Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Xá Lợi Tử! Đấy là Bồ Tát vì lợi vui khắp các hữu tình nên nương vào Đại thừa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu Bồ Tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, như thật quán sát Bồ Tát chỉ có giả danh, thi thiết lời nói, Bồ đề và Tác đỏa đều bất khả đắc. Sắc cho đến thức chỉ có giả danh thi thiết lời nói, cũng bất khả đắc. Nhãn cho đến ý chỉ có giả danh, thi thiết lời nói, cũng bất khả đắc. Sắc, thọ, tưởng cho đến pháp chỉ có giả danh, thi thiết lới nói, cũng bất khả đắc. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới chỉ có giả danh, thi thiết lời nói, cũng bất khả đắc. Bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi chỉ có giả danh, thi thiết lời nói, bất khả đắc. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không chỉ có giả danh, thi thiết lời nói, bất khả đắc. Nói rộng cho đến Như Lai mười lực, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chỉ có giả danh, thi thiết lời nói, cũng bất khả đắc. Chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế chỉ có giả danh, thi thiết lời nói, bất khả đắc. Năng giác, sở giác chỉ có giả danh, thi thiết lời nói, bất khả đắc. Chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chỉ có giả danh, thi thiết lời nói, cũng bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Đấy là Bồ Tát vì lợi vui khắp các hữu tình nên nương vào Đại thừa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu Bồ Tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, từ sơ phát tâm cho đến chứng Nhất thiết trí trí thường tu viên mãn thần thông, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Từ một nước Phật đến một nước Phật cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn. Ở chỗ chư Phật nghe thọ trì diệu pháp tương ưng với Đại thừa của chư Phật. Đã lắng nghe, thọ trì rồi, tư duy đúng lý, siêng năng tu học.
Xá Lợi Tử! Đấy là Bồ Tát vì lợi vui khắp các hữu tình nên nương vào Đại thừa.
Xá Lợi Tử! Bồ Tát này tuy nương vào Đại thừa, từ một nước Phật đến một nước Phật cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn. Ở chỗ chư Phật nghe thọ diệu pháp, thành thục hữu tình nghiêm tịnh cõi Phật, mà tâm không tưởng đến cõi Phật.
Này Xá lợi Tử! Bồ Tát này an trụ địa vị Bất nhị, quán các hữu tình nên dùng thân nào để độ được liền hiện ra thân như vậy.
Xá Lợi Tử! Bồ Tát này cho đến chứng được Nhất thiết trí trí, tùy sanh chỗ nào thường chẳng xa lìa Chánh pháp Đại thừa. Bồ Tát này chẳng bao lâu sẽ được Nhất thiết trí trí, vì trời người… quay xe Chánh pháp. Xe pháp như thế Thanh văn, Độc giác, trời, ma, phạm chẳng thể quay được.
Xá Lợi Tử! Bởi các Bồ Tát vì lợi vui khắp các hữu tình nên nương vào Đại thừa nên lại gọi Ma ha tát.
Xá Lợi Tử! Như vậy, vì lợi vui hữu tình nương Đại thừa Bồ Tát được khắp mười phương thế giới như cát sông Hằng, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, ở giữa đại chúng vui mừng ngợi khen, nói lời như vầy: Phương ấy, trong thế giới ấy, có Bồ Tát tên ấy, vì lợi vui khắp tất cả hữu tình, nương Đại thừa, chẳng bao lâu sẽ được Nhất thiết trí trí, vì trời người… quay xe Chánh pháp. Xe ấy thế gian các Thanh văn đều chẳng thể quay được. Như vậy lần lữa tiếng vang khắp mười phương, người trời nghe thấy đều rất vui mừng, nên nói lời này: Bồ Tát đây chẳng bao lâu sẽ được Nhất thiết trí trí, quay xe diệu pháp độ chúng vô lượng.
Sơ giải:
Tất cả những điều mà Mãn Từ Tử giải thích cho Xá Lợi Tử đều rất dễ hiểu ngắn gọn, ai cũng có thể hiểu nên không cần giải thích thêm ở đây. Chỉ cần nhớ: Nếu Bồ Tát nương Đại thừa tu hành tất cả phương tiện thiện xảo, đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, tu hành bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, nhưng đừng thấy năng sở hay say đắm cảnh giới khả ái do mình tu hành đạt được, thì được xem là Bồ Tát lớn hay Bồ Tát Ma ha tát. Chư vị Bồ Tát này mau chứng Vô Thương Chánh Giác, quay xe diệu pháp cứu độ vô lượng chúng sanh, chư Phật trong mười phương thế giới như cát sông Hằng ở giữa đại chúng vui mừng khen ngợi.
Điều đáng lưu ý của phẩm này cũng như toàn bộ Đại Bát Nhã là “tất cả pháp là không, chỉ có giả danh, thi thiết lời nói, đều bất khả đắc, dù đó là pháp Phật hay Niết bàn”. Nên đừng bao giờ mong cầu chứng đắc hay hưởng phúc lợi do tu hành mà được. Nếu hiểu điểm này thì hiểu thế nào là tu Tánh Không Bát Nhã hay hiểu toàn bộ giáo lý Đại thừa! Tất cả đều vô sở hữu, bất khả đắc. Tu là vì lợi ích tất cả hữu tình, chứ không vì cá nhân mình làm mình hưởng. Như vậy, mới được xem thừa Đại thừa, tức đi xe Phật đi, đi đường Tổ phụ chư Phật đã đi, học pháp Tổ phụ chư Phật đã học, hành tất cả pháp chư Phật đã hành, chứng pháp chư Phật đã chứng, thuyết pháp chư Phật đã thuyết.
Đại Trí Độ Luận, Phẩm thứ 18, “Thừa Đại Thừa”, tập 3, quyển 46, thuyết rằng:
“Bồ Tát từ nơi chúng sanh không mà vào được pháp không, nên khi hành bố thí chẳng thấy có người thí, chẳng thấy có vật thí và cũng chẳng thấy có người thọ thí. Hành các Ba La Mật khác cũng đều như vậy cả. Đây là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa.
Lại nữa, Bồ Tát dùng tâm chẳng có tạp niệm, ly các phiền não. Chẳng hướng về Nhị Thừa địa, chỉ hướng về Nhất Thiết Chủng Trí mà tu tứ niệm xứ,... dẫn đến tu thập bát bất cộng pháp(1), biết rõ hết thảy các pháp ấy đều là rốt ráo thanh tịnh, đều là bất khả đắc. Đây là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa.
Lại nữa, Bồ Tát biết rõ hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều chỉ là danh tự, đều là bất khả đắc. Đây là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa.
Lại nữa, Bồ Tát phát đại thệ trang nghiêm thành tựu chúng sanh, tịnh Phật quốc độ, đi từ quốc độ này đến quốc độ khác, đem hoa sen bảy báu để cúng dường, tôn kính chư Phật, và để nghe chư Phật thuyết pháp Đại Thừa. Bồ Tát thành tựu chúng sanh, tịnh Phật quốc độ như vậy mà chẳng sanh tưởng về chúng sanh, chẳng sanh tưởng về quốc độ, lại an trú trong “pháp môn bất nhị”, vì chúng sanh mà thọ thân, tùy tâm chúng sanh mà phương tiện thuyết pháp nhằm hóa độ họ. Đây là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa.
--o0o--
Bồ Tát thừa Đại Thừa nguyện thành Phật, chuyển pháp luân nên được chư Phật khắp mười phương xưng danh và tán thán.
--o0o--
Đại Thừa là rốt ráo thanh tịnh, nên Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa dùng các thần thông để tự trang nghiêm. Trú trong thừa ấy, Bồ Tát Ma Ha Tát một thời biến hóa vô biên thân, đi khắp mười phương, cúng dường chư Phật, như vậy mãi cho đến khi được Nhất Thiết Chủng Trí vẫn chẳng hề ly Đại Thừa, chẳng hề ly chư Phật”.
Thích nghĩa cho phần lược giải của phẩm “Thừa Đại Thừa” này:
(1). Khi đọc chính văn mà thấy có câu này “Bốn niệm trụ... cho đến mười tám pháp Phật bất cộng”, xin hiểu là chúng tôi muốn rút gọn đoạn kinh chính văn của Đại Bát Nhã:
““bốn niệm trụ, hoặc khuyên tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; hoặc khuyên tu hành Tam ma địa không, hoặc khuyên tu hành Tam ma địa vô tướng, vô nguyện; hoặc khuyên tu hành pháp môn giải thoát không, hoặc khuyên tu hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; hoặc khuyên tu hành tám giải thoát, hoặc khuyên tu hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc khuyên tu hành bố thí Ba la mật , hoặc khuyên tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, phương tiện thiện xảo, nguyện, lực, trí Ba la mật; hoặc khuyên an trụ Thánh đế khổ, hoặc khuyên an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc khuyên an trụ pháp không nội, hoặc khuyên an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; hoặc khuyên an trụ chơn như, hoặc khuyên an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; hoặc khuyên tu hành tất cả pháp môn Đà la ni, hoặc khuyên tu hành tất cả pháp môn Tam ma địa; hoặc khuyên tu hành bậc Cực hỷ, hoặc khuyên tu hành bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; hoặc khuyên tu hành năm loại mắt, hoặc khuyên tu hành sáu phép thần thông; hoặc khuyên tu hành mười lực Như Lai, hoặc khuyên tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng v.v…
Cứ mỗi lần nhắc đến các pháp Phật như trên mà phải liệt kê đầy đủ như vậy và lặp đi lặp lại hàng trăm hàng ngàn lần trong toàn bản Đại Bát Nhã, là trùng tụng quá nhiều. Việc trùng tụng như vậy làm cho Kinh kéo dài và nặng nề thêm. Nên Kinh MHBNBLMĐ hay Đại Trí Độ Luận rút gọn là: “Tu tứ niệm xứ(hay tứ niệm trụ),..., dẫn đến tu thập bát bất cộng pháp”. Chúng tôi cũng theo lối rút gọn này trong thiên Tổng luận của chúng tôi, để tránh trùng tụng, dài dòng.
Rất nhiều trong số những khái niệm và nhận thức của chúng ta được xây dựng dựa trên những định kiến và quy ước. Những gì được cho là tốt, xấu, hay, dở... ở một nơi này lại rất có thể sẽ không được đánh giá tương tự như thế ở một nơi khác. Đơn giản chỉ là vì những định kiến và quy ước khác nhau. Những phong bao đỏ lì xì trong dịp Tết chẳng hạn, rất quen thuộc ở một số nước Á Đông, nhưng lại có thể là xa lạ đối với đa số các nước Âu Mỹ. Ngược lại, hai người bạn lâu ngày gặp nhau ôm hôn trên đường phố để tỏ tình thân ái là việc rất bình thường trong xã hội Âu Mỹ, nhưng có thể mọi người đều sẽ lấy làm lạ nếu điều đó lại xảy ra trên một đường phố ở Á Đông...
Trong khoảng vài thập niên vừa qua, sự bùng nổ các phương tiện thông tin trên toàn thế giới, và nhất là trên khắp các thành phố lớn ở Việt Nam ta, đã mang đến những thuận lợi lớn lao thúc đẩy sự tiến bộ vượt bực trong hầu hết các lãnh vực khoa học, kỹ thuật, công nghệ, giáo dục... Nhưng bên cạnh đó, môi trường phát triển mới cũng đặt ra không ít những khó khăn thách thức, những ưu tư lo ngại về sự phát triển tinh thần của thế hệ trẻ trong tương lai.
Một buổi sáng thức dậy băn khoăn nghe tiếng chim rất lạ. Mỗi một nụ cười, ánh mắt, bước chân đi cũng dường như thay đổi. Lòng dạt dào những cảm xúc khó tả, và nghĩ đến điều gì cũng thấy như mình đã hiểu biết rất nhiều hơn. Ô hay, mình đã lớn!
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này. Vì thế, thiền không phải là một lãnh vực siêu nhiên vượt ngoài phạm trù ý thức thông thường như nhiều người lầm tưởng, mà trái lại chính là sự soi rọi, chiếu sáng những trạng thái tâm thức hết sức bình thường mà mỗi người chúng ta đều đã và đang trải qua trong cuộc sống thường ngày.
Thiền đã trở thành một trong những tinh hoa của nhân loại. Ngày nay, từ Đông sang Tây người ta không còn xa lạ gì với thiền và những công năng kỳ diệu của nó. Nhiều trung tâm thực hành và hướng dẫn thực hành thiền quán đã được hình thành trên khắp châu Âu. Ở các nước Á Đông, với một truyền thống sâu xa hơn, thiền đã bắt rễ vào từng tự viện lớn cũng như nhỏ, và người ta gần như có thể tìm đến với thiền không mấy khó khăn.
Thời gian làm việc của chúng ta bao giờ cũng chiếm một tỷ lệ khá lớn trong cuộc sống hằng ngày, cho dù là ta đang giữ bất cứ vị trí nào trong xã hội. Vì thế, qua công việc chúng ta không chỉ nhận được những giá trị vật chất bằng vào sức lao động của bản thân, mà còn có cả những giá trị tinh thần trong cuộc sống...
Bộ Tỳ Ni Nhựt Dụng Thiết Yếu nầy, do Hòa Thượng Kiến Lão dựa theo Tâm Đại Từ Bi của Đức Phật, Ngài rút ra từ phẩm Tịnh Hạnh trong kinh HOA NGHIÊM, trong MẬT BỘ và trong các Kinh Luật, viết thành 53 bài kệ với 38 câu thần chú, rồi sắp xếp theo hệ thống, hợp thành một quyển.
Lời văn dón gọn dễ nhớ, rất tiện cho kẻ sơ cơ nhập Đạo, làm khuôn thước cho thân tâm. Trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi của người tu, không vượt ra ngoài giới luật, khiến cho hành giả suốt ngày đêm 24 giờ, tất cả đều nằm trong khuôn khổ thánh thiện.
Đây chính là thềm thang tiến tu Đạo nghiệp, là cửa ngỏ đi vào cảnh giới Phật Đà.
Người tu hành quan trọng nhất là Điều Phục Vọng Tâm và An Trụ Chơn Tâm, vì tâm chính là chủ của thân, thân chỉ là dụng của tâm. Do đo,ù muốn An Trụ Chơn Tâm, muốn hiển lộ Tánh Giác thì phải thân đâu tâm đó, cần phải làm gì biết nấy, để khỏi chạy theo vọng niệm.
Ngôi tu viện Phật giáo vùng Tây Bắc của tiểu bang Victoria được Thượng tọa Thích Tâm Phương khai sơn từ năm 1990. Ban đầu tu viện tọa lạc ở vùng Broadmeadows. Đến năm 1995, tu viện vận động mua lại ngôi trường tiểu học Fawkner cũ có diện tích 8.000 m2 và xây dựng thành ngôi phạm vũ trang nghiêm mang tên Bồ tát Thích Quảng Đức từ năm 1997 đến năm 2003. Công trình xây dựng do kiến trúc sư Nguyễn Kiển Thành thiết kế, kiến lập theo kiểu chữ “Công” mang dáng dấp kiến trúc cổ kính Á Đông. Đại lễ khánh thành được tu viện tổ chức trọng thể vào các ngày 10, 11 và 12-10-2003.
Điện Phật được bài trí tôn nghiêm thờ tôn tượng đồng đức Phật Thích Ca thiền định. Tượng cao 2,50m, nặng khoảng 1,5 tấn. Phía trước và hai bên, tu viện đặt thờ nhiều tượng Phật, Bồ tát, Hộ Pháp Già Lam.
Đến năm 2008, tu viện xây Tăng xá và Bảo tháp Tứ Ân. Bảo tháp 4 tầng, cao 14m, rộng 5m, trên nóc tôn trí tượng đức Phật A Di Đà cao 1,2m. Trong bảo tháp tôn thờ Xá Lợi Phật, tượng chư Phật, Bồ tát và linh cốt của Phật tử q
Những câu kệ, lời văn, tư tưởng, ý nghĩ trong suốt 365 trang giấy của quyển sách nhỏ này là tinh hoa, là kinh nghiệm tu tập, là trải nghiệm cuộc sống từ nhiều nguồn tư tưởng, hệ phái, pháp môn khác nhau, là suối nguồn tư duy, là hạnh nguyện, là sự hành đạo và chứng đạo của những bậc Lạt Ma Phật giáo Tây Tạng, những Tăng sĩ Miến Điện, những vị Thiền sư, những đạo sĩ Ấn Độ giáo, những cư sĩ học giả Đông Tây, và ngay cả những thi sĩ, văn hào, nghệ nhân trên thế giới, tuy nhiên, như nước trăm sông đều chảy xuôi về biển rộng, dù khác nhau trên mặt văn từ, ngôn ngữ hay hình thái diễn đạt, những nguồn tư tưởng tâm linh này đều nhắm chung về một đích hướng là “Yêu thương đời, giác ngộ người trong Từ Bi, Trí Tuệ và An Lạc.”
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.