Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

02. Phẩm “Hoan Hỷ” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

06/08/202014:40(Xem: 9233)
02. Phẩm “Hoan Hỷ” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

2.2. Hoan Hỷ - QT

 

PHẨM “HOAN HỶ”

Phần đầu quyển 402, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương với phẩm “Học Quán”, từ quyển 03 đến quyển 04, Hội thứ I)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước




Tóm lược:

 

1. (Học Bát Nhã phải lấy vô trụ, vô xả, vô hộ, vô thủ, vô cần, vô tư, vô trước, vô sở đắc làm phương tiện để tu tập tất cả pháp Phật, nhưng nên nhớ Tánh và Tướng tất cả pháp đều bất khả đắc).

 

Bấy giờ, biết các chúng có duyên ở thế giới đều đến hội họp như là: Chư Thiên, ma, phạm, các Sa môn, Bà la môn, Kiền đạt phược, A tu la, rồng, thần, người, chẳng phải người, chúng đại Bồ Tát trụ thân cuối cùng nối ngôi tôn quí, Thế Tôn liền bảo cụ thọ Xá lợi Tử:

- Nếu đại Bồ Tát muốn hiểu rõ tất cả tướng của tất cả pháp thì nên học Bát nhã Ba la mật.

Lúc ấy, Xá lợi Tử vui mừng hớn hở, rời khỏi tòa, đảnh lễ Phật, trịch áo vai phải, gối phải chấm đất, chấp tay cung kính thưa:

- Bạch Thế Tôn! Tại sao đại Bồ Tát muốn hiểu rõ tướng của tất cả pháp phải học Bát nhã Ba la mật?

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Chư đại Bồ Tát nên dùng vô trụ làm phương tiện để an trụ Bát Nhã, vì năng trụ, sở trụ bất khả đắc; nên dùng vô xả làm phương tiện để viên mãn bố thí, vì người thí, người nhận và vật bố thí bất khả đắc; nên dùng vô hộ làm phương tiện để viên mãn tịnh giới; vì tướng phạm, vô phạm bất khả đắc; nên dùng vô thủ làm phương tiện để viên mãn nhẫn nhục, vì tướng động, bất động bất khả đắc; nên dùng vô cần làm phương tiện để viên mãn tinh tấn, vì thân tâm siêng năng, lười biếng bất khả đắc; nên dùng vô tư làm phương tiện để viên mãn tịnh lự Ba la mật, vì hữu vi, vô vi bất khả đắc; nên dùng vô trước làm phương tiện để viên mãn Bát nhã Ba la mật, vì tướng và tánh của các pháp bất khả đắc(1).

Lại nữa, Xá lợi Tử! Các đại Bồ Tát an trụ Bát nhã Ba la mật, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu tập 37 pháp trợ đạo, 37 pháp phần Bồ đề này bất khả đắc; dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu tập không, vô tướng, vô nguyện Tam ma địa, ba đẳng trì này bất khả đắc; dùng vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tịnh lự, vô lượng và vô sắc định cũng bất khả đắc; dùng vô sở đắc làm phương tiện, tu tập tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, giải thoát, thắng xứ đẳng chí biến xứ bất khả đắc; dùng vô sở đắc làm phương tiện, tu tập chín tưởng: Tưởng trướng, tưởng sình, tưởng đỏ bầm, tưởng xanh bầm, tưởng mổ ăn, tưởng vung vãi, tưởng hài cốt, tưởng thiêu đốt, tưởng hoại diệt, các tưởng như thế bất khả đắc; dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu tập mười tùy niệm: Phật tùy niệm, Pháp tùy niệm, Tăng tùy niệm, giới tùy niệm, xả tùy niệm, thiên tùy niệm, thở ra vào tùy niệm, nhàm chán tùy niệm, chết tùy niệm, thân tùy niệm, các tùy niệm này bất khả đắc; dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu tập 11 trí: khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, tận trí, vô sanh trí, pháp trí, loại trí, thế tục trí, tha tâm trí, như thuyết trí, các trí như vậy cũng bất khả đắc; dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu tập Tam ma địa có tầm có từ, Tam ma địa không tầm có từ, Tam ma địa không tầm không từ, ba Tam ma địa này cũng bất khả đắc; dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu tập vị tri đương tri căn, dĩ tri căn, cụ tri căn, ba căn vô lậu này bất khả đắc; dùng vô sở đắc làm phương tiện nên tu tập quán chỗ bất tịnh, quán biến mãn xứ, Nhất thiết trí trí, Xa ma tha, Tỳ bát xá na, bốn nhiếp sự, bốn thắng trụ, ba minh, năm loại mắt, sáu phép thần thông, sáu Ba la mật, bảy chi của Thánh, tám đại sĩ giác, chín hữu tình cư trí, Đà la ni môn, Tam ma địa môn, mười địa, mười hạnh , mười nhẫn, hai mươi tăng thượng ý lạc, Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng, ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi tùy hảo, pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, tất cả tướng vi diệu trí, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và bao nhiêu vô lượng vô biên Phật pháp. Các pháp như thế chẳng khá được vậy. Nghĩa là dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu tập tất cả pháp Phật, nhưng nên nhớ tất cả pháp như thế đều bất khả đắc.

 

(Bồ Tát nên học những gì?)

 

Lại nữa, Xá lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát muốn mau chứng đắc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, Nhất thiết tướng vi diệu trí, muốn mau viên mãn nhất thiết hữu tình tâm hành tướng trí, thì nên học Bát Nhã; muốn trừ tất cả tập khí, phiền não nên học Bát Nhã; muốn thể nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ Tát nên học Bát Nhã; muốn vượt qua địa vị Thanh văn, Độc giác nên học Bát Nhã; muốn trụ ngôi vị Bồ Tát bất thối chuyển nên học Bát Nhã; muốn được sáu loại thần thông thù thắng nên học Bát Nhã; muốn biết tâm hành và chỗ đến sai khác của tất cả hữu tình nên học Bát Nhã; muốn vượt hơn tác dụng trí tuệ của tất cả Thanh văn, Độc giác nên học Bát nhã Ba la mật; muốn được tất cả các môn Đà la ni, Tam ma địa nên học Bát nhã Ba la mật; muốn đem một niệm tâm tùy hỷ vượt hơn sự bố thí, tịnh giới của tất cả Thanh văn, Độc giác nên học Bát nhã Ba la mật; muốn đem một niệm tâm tùy hỷ vượt hơn định, tuệ giải thoát, giải thoát tri kiến của tất cả Nhị thừa nên học Bát nhã Ba la mật; muốn đem một niệm tâm tùy hỷ vượt hơn tịnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí và thiện pháp khác của tất cả Nhị thừa nên học Bát nhã Ba la mật; muốn đem một niệm tu tập thiện pháp vượt hơn thiện pháp của tất cả phàm phu, Thanh văn, Độc giác nên học Bát nhã Ba la mật; muốn thực hành chút ít bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, vì các hữu tình phương tiện thiện xảo để hồi hướng quả Vô Thượng Chánh Giác, được vô lượng vô biên công đức nên học Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Nếu Đại Bồ Tát muốn thực hành lục Ba la mật, lìa các chướng ngại mau được viên mãn thì nên học Bát nhã Ba la mật; muốn được đời đời thường gặp chư Phật, thường nghe Chánh pháp, được Phật giác ngộ, nhớ nghĩ lời Phật dạy nên học Bát nhã Ba la mật; muốn được thân Phật đủ ba mươi hai tướng Đại sĩ của bậc đại trượng phu, tám mươi vẻ đẹp đầy đủ, trang nghiêm nên học Bát nhã Ba la mật; muốn được đời đời thường nhớ nghĩ Bồ đề tâm đời trước, không quên mất, xa lìa bạn ác, gần gũi bạn lành, thường tu Bồ Tát hạnh nên học Bát nhã Ba la mật; muốn được đời đời đầy đủ oai lực lớn hàng phục các ma, dẹp trừ ngoại đạo nên học Bát nhã Ba la mật; muốn được đời đời xa lìa tất cả phiền não, nghiệp chướng, thông đạt các pháp, tâm không chướng ngại nên học Bát nhã Ba la mật; muốn được đời đời tâm hoàn hảo, nguyện hoàn hảo, hành hoàn hảo, liên tục, thường không biếng nhác, bỏ bê nên học Bát nhã Ba la mật; muốn sanh vào nhà Phật, vào địa vị đồng chơn, thường không xa lìa chư Phật, Bồ Tát nên học Bát nhã Ba la mật; muốn được đời đời đầy đủ các tướng tốt trang nghiêm như Phật, tất cả hữu tình trông thấy đều hoan hỷ, phát sanh tâm Vô Thượng Chánh Giác, mau được thành tựu công đức Phật nên học Bát nhã Ba la mật; muốn đem các năng lực của thiện căn thù thắng, các phẩm vật cúng dường tốt đẹp tùy ý cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, làm cho các thiện căn mau được viên mãn thì nên học Bát Nhã; muốn làm cho thỏa mãn đầy đủ tất cả vật mong cầu của chúng sanh như: Thức ăn, thức uống, y phục, giường nằm, thuốc men, hoa, hương, đèn, nhà cửa, lúa gạo v.v… nên học Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Nếu Bồ Tát muốn khéo an lập tất cả hữu tình trong khắp cõi hư không, cõi pháp, cõi đời, khiến họ đều an trú sáu pháp Ba la mật, thì nên học Bát nhã Ba la mật; muốn được công đức phát sanh một niệm thiện tâm cho đến quả Vô Thượng Bồ Đề không cùng tận thì nên học Bát nhã Ba la mật; muốn được chư Phật các thế giới trong mười phương, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Chánh Giác, các Bồ Tát cùng khen ngợi thì nên học Bát nhã Ba la mật; muốn một khi phát tâm có thể đến khắp vô số thế giới trong mười phương, cúng dường chư Phật, làm lợi lạc cho chúng sanh thì nên học Bát nhã Ba la mật; muốn trong một niệm làm cho tất cả hữu tình trong hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương tu học mười thiện nghiệp đạo, thọ tam qui y, hộ trì cấm giới, tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, được năm thần thông nên học Bát nhã Ba la mật; muốn trong một niệm có thể làm cho tất cả hữu tình trong vô số thế giới chư Phật khắp mười phương an trụ pháp Đại thừa, tu Bồ Tát hạnh, chẳng khinh bỏ các thừa khác nên học Bát nhã Ba la mật; muốn tiếp nối dòng giống Phật không để cho đoạn tuyệt, hộ trì ngôi nhà Bồ Tát làm cho không bị thối chuyển, làm thanh tịnh cõi Phật và mau được thành tựu nên học Bát Nhã.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát muốn an trụ pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh thì nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát muốn an trụ tất cả chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế v.v… thì nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát muốn hiểu biết tánh của tất cả pháp không điên đảo, không phân biệt thì nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát muốn hiểu biết tất cả pháp nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, tánh vô sở hữu, bất khả đắc thì nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát muốn hiểu biết tất cả pháp như huyễn, như mộng, như tiếng vang, như hình bóng, như bóng sáng, như sóng nắng, như hoa đốm trên không, như thành Càn thát bà, như các việc biến hóa, chỉ do tâm hiện ra, tánh, tướng đều không thì nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát muốn biết đại địa, hư không, núi non, biển cả, sông ngòi, ao bàu, khe hang, vũng hồ, địa, thủy, hỏa, phong, các lượng cực vi trong tam thiên đại thiên thế giới khắp mười phương thì nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát muốn chẻ một sợi lông ra làm trăm phần, lấy một phần sợi lông, đem hết nước trong biển cả, sông ngòi, ao bàu, khe hang, vũng hồ khắp tam thiên đại thiên thế giới bỏ vào trong vô biên thế giới ở phương khác mà không làm tổn hại hữu tình trong ấy thì nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát gặp kiếp hỏa thiêu cháy khắp tam thiên đại thiên thế giới, làm cho trời đất đều cháy rụi, muốn dùng một hơi thở thổi tắt liền thì nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát gặp kiếp phong nổi lên, tam thiên đại thiên thế giới nương phong luân bị thổi mạnh bay vọt lên, sắp thổi tam thiên đại thiên thế giới, núi Tô mê lô, núi Luân vi v.v... các vật đều tan nát như bụi, muốn dùng một ngón tay để ngăn lại sức gió kia làm cho chúng tan đi thì nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát ở trong tam thiên đại thiên thế giới, muốn một khi ngồi kiết già đầy khắp cả hư không thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát muốn đem một sợi lông quấn lấy tam thiên đại thiên thế giới, núi Diệu cao, núi Luân vi các vật ném qua vô lượng vô biên thế giới ở phương khác, mà không làm tổn hại chúng hữu tình trong đó, thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát muốn đem một món ăn, một chút hoa, hương, tràng, lọng ... cúng dường cung kính, tôn trọng khen ngợi tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và chúng đệ tử trong vô số thế giới khắp mười phương không ai chẳng đầy đủ thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát muốn làm cho chúng hữu tình trong vô số thế giới khắp mười phương an trụ giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn, hoặc trụ vào quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề cho đến nhập Vô dư y Niết bàn thì nên học Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã có thể biết như thật bố thí như vậy được phước báo lớn, nghĩa là biết như thật bố thí như vậy được sanh dòng tộc Sát đế lợi, hoặc sanh dòng tộc Bà la môn, hoặc Trưởng giả, hoặc Cư sĩ. Bố thí như thế được sanh vào cõi Tứ đại thiên vương, hoặc sanh vào cõi trời Dục, Sắc hay Vô sắc. Do bố thí như vậy được sơ thiền, hoặc đệ nhị thiền, hoặc đệ tam thiền, hoặc đệ tứ thiền. Do bố thí như vậy được định Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Do bố thí như thế phát sanh bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, đắc quả Dự lưu, hoặc Nhất lai, hoặc Bất hoàn, hoặc quả A la hán, hoặc quả vị Độc giác, hoặc chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Nếu đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã có thể biết như thật về bố thí, dùng phương tiện thiện xảo, bố thí Ba la mật viên mãn; bố thí như thế dùng phương tiện thiện xảo làm viên mãn tịnh giới Ba la mật; bố thí như thế dùng phương tiện thiện xảo làm viên mãn an nhẫn Ba la mật; bố thí như thế dùng phương tiện thiện xảo làm viên mãn tinh tấn Ba la mật; bố thí như thế dùng phương tiện thiện xảo làm viên mãn tịnh lự Ba la mật; bố thí như thế dùng phương tiện thiện xảo làm viên mãn Bát nhã Ba la mật. Như vậy, thực hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật với phương tiện thiện xảo thì có thể làm viên mãn sáu Ba la mật.

Khi ấy, Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, có thể biết như thật bố thí, dùng phương tiện thiện xảo làm viên mãn bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật?

Phật dạy:

- Xá lợi Tử! Vì đem vô sở đắc làm phương tiện nghĩa là đại Bồ Tát khi thực hành bố thí hiểu rõ tướng của tất cả người thí, người nhận và vật bố thí đều bất khả đắc, có thể làm viên mãn bố thí Ba la mật; vì tướng phạm, không phạm bất khả đắc, nên có thể làm viên mãn tịnh giới Bát nhã Ba la mật; vì tướng động, bất động bất khả đắc, nên có thể làm viên mãn an nhẫn Ba la mật; vì thân tâm siêng năng, biếng nhác bất khả đắc, nên có thể làm viên mãn tinh tấn Ba la mật; có loạn, không loạn bất khả đắc, nên có thể làm viên mãn tịnh lự Ba la mật vì tánh tướng các pháp bất khả đắc, nên có thể làm viên mãn Bát nhã Ba la mật. Đó là đại Bồ Tát khi thực hành bố thí, dùng phương tiện thiện xảo có thể làm viên mãn sáu Ba la mật. Như vậy, đại Bồ Tát khi thực hành tịnh giới, dùng phương tiện thiện xảo, có thể làm viên mãn sáu Ba la mật, cho đến khi thực hành Bát Nhã, dùng phương tiện thiện xảo, có thể làm viên mãn sáu Ba la mật.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát muốn được công đức của chư Phật trong đời quá khứ, vị lai, hiện tại thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát muốn đến bờ kia của tất cả các pháp hữu vi, vô vi thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát muốn đạt được các pháp chơn như, pháp giới, pháp tánh, vô sanh, thực tế trong quá khứ, vị lai, hiện tại thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát muốn thấu suốt tận cùng ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại sanh hay bất sanh thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát muốn làm bậc đạo sư cho tất cả Thanh văn, Độc giác thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát muốn hầu cận tất cả Như Lai thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát muốn làm dòng họ quyến thuộc của tất cả Như Lai thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát muốn được quyến thuộc đông thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát muốn được thường cùng Bồ Tát làm quyến thuộc thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát muốn điều phục tâm xan tham, không sanh tâm phạm giới, trừ bỏ tâm sân giận, tâm biếng nhác, dừng lặng tâm tán loạn, xa lìa tâm ác tuệ thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát muốn làm cho tất cả hữu tình an trụ vào việc tánh thí phước nghiệp, tánh giới phước nghiệp, tu tánh phước nghiệp, cúng dường hầu cận phước nghiệp, hữu y phước nghiệp thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát muốn được ngũ nhãn: Nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn thì nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát muốn dùng thiên nhãn thấy hết vô số thế giới chư Phật trong mười phương thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát muốn dùng thiên nhĩ nghe hết những lời Phật dạy trong vô số thế giới khắp mười phương thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát muốn biết như thật về pháp tâm, tâm sở của tất cả chư Phật trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát muốn được nghe chư Phật trong mười phương thế giới thuyết pháp cho đến chứng quả Vô Thượng Bồ Đề không đoạn tuyệt thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát muốn thấy tất cả cõi nước chư Phật trong mười phương ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát muốn đối với mười hai bộ Kinh mà chư Phật trong mười phương ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại đã thuyết: Khế Kinh, Ứng tụng, Thọ ký, Phúng tụng, Tự thuyết, Nhân duyên, Bổn sự, Bổn sanh, Phương quảng, Hy pháp, Thí dụ, Luận nghị mà các Thanh văn chưa từng nghe, đều có thể thọ trì thông suốt, cứu cánh thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát muốn đối với  pháp môn mà chư Phật trong mười phương, ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại đã thuyết, tự mình đã thọ trì thông suốt rốt ráo, lại có thể giảng thuyết như thật cho người khác thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát muốn đối với pháp môn chư Phật trong mười phương, ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại đã thuyết, tự mình thực hành như thật, lại có thể khuyên bảo người khác thực hành như thật thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát muốn chiếu ánh sáng đến vô số thế giới tối tăm, hoặc thế giới trung gian khắp mười phương nơi mà ánh sáng mặt trời, mặt trăng không chiếu đến thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát muốn đối với chúng hữu tình trong vô lượng thế giới bị tà kiến không nghe đến danh hiệu Phật, Pháp, Tăng trong mười phương mà có thể khai thị, giáo hóa làm cho họ phát sanh chánh kiến, nghe danh Tam Bảo thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát dùng oai lực của mình muốn làm cho chúng hữu tình trong vô số thế giới trong mười phương, người mù có thể thấy được, người điếc có thể nghe được, người câm có thể nói được, người cuồng nhớ nghĩ được, người loạn ổn định được, người nghèo được giàu, người thiếu áo được áo, người đói được ăn, người khát được uống, người bệnh được trị lành, người xấu được đẹp, người tàn tật được đầy đủ, người thiếu các căn được đầy đủ, người mê được tỉnh ngộ, kẻ mệt mỏi được thư thái. Tất cả hữu tình với tâm bình đẳng, đối với nhau như cha, mẹ, anh em, chị em, bạn bè, thân thuộc thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát dùng oai lực của mình muốn làm cho chúng hữu tình trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương, ở trong đường ác, được sanh vào cõi thiện thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát dùng oai lực của mình muốn làm cho chúng hữu tình trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương quen theo nghiệp ác đều tu theo nghiệp thiện thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát dùng oai lực của mình muốn làm cho chúng hữu tình trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương, người phạm giới được an trụ vào giới uẩn, người chưa được định đều an trụ vào định uẩn, người có tuệ ác đều an trụ vào tuệ uẩn, người không được giải thoát đều trụ giải thoát uẩn, người không được giải thoát tri kiến đều trụ giải thoát tri kiến uẩn, người chưa đắc kiến đế thì đuợc quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A la hán, hoặc quả vị Độc giác, hoặc chứng đắc Vô Thượng Bồ Đề thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát muốn học oai nghi thù thắng của chư Phật, làm cho các hữu tình trông thấy không chán, dứt tất cả điều ác, sanh tất cả điều thiện thì nên học Bát Nhã.

Lại nữa, này Xá lợi Tử! Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, suy nghĩ: Chừng nào ta mới được như voi chúa dung nghi đĩnh đạc, nghiêm nghị, thuyết pháp cho đại chúng! Muốn thành tựu việc này nên học Bát nhã Ba la mật.

Đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, suy nghĩ: Chừng nào ta mới được thân, ngữ, ý nghiệp hành động theo trí tuệ, luôn được thanh tịnh! Muốn đạt được điều này nên học Bát nhã Ba la mật.

Đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật suy nghĩ: Chừng nào ta mới được chân đi cách đất chừng bốn lóng tay một cách tự tại! Muốn được việc này nên học Bát nhã Ba la mật.

Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã suy nghĩ: Chừng nào ta mới được vô lượng trăm ngàn triệu ức thiên chúng trời Tứ đại thiên vương, cho đến trời Sắc cứu cánh cúng dường cung kính, tôn trọng khen ngợi, cùng nhau đi đến cội Bồ đề! Muốn thành tựu việc này nên học Bát nhã Ba la mật.

Đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật suy nghĩ: Chừng nào ta mới được vô lượng trăm ngàn triệu ức thiên chúng trời Tứ đại vương cho đến trời Sắc cứu cánh ở dưới cội Bồ đề, đem thiên y làm tòa! Muốn thành tựu việc này nên học Bát nhã Ba la mật.

Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã suy nghĩ: Chừng nào ta mới được ngồi dưới cội Bồ đề làm cho các chúng ma qui phục, chứng đắc quả Vô Thượng Bồ Đề! Muốn được việc này nên học Bát nhã Ba la mật.

Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã suy nghĩ: Chừng nào ta mới được thành Chánh Giác, khi đi, đứng, ngồi, nằm ở chỗ nào thì chỗ ấy đều thành kim cương! Muốn được điều này nên học Bát nhã Ba la mật.

Đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật suy nghĩ: Chừng nào ta mới bỏ nước xuất gia, cũng đến ngày đó thành Vô Thượng Chánh Giác, rồi cũng đến ngày đó chuyển bánh xe chánh pháp, làm cho vô lượng, vô số hữu tình xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh, lại làm cho vô lượng, vô số hữu tình hết hẳn các lậu, tâm và tuệ giải thoát, cũng làm cho vô lượng, vô số hữu tình không thối chuyển đối với quả Vô Thượng Bồ Đề! Muốn được như vậy nên học Bát nhã Ba la mật.

Đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, suy nghĩ: Chừng nào ta mới được Vô Thượng Bồ Đề, vô lượng, vô số Thanh văn, Bồ Tát làm chúng đệ tử, mỗi khi thuyết pháp làm cho vô lượng, vô số hữu tình ngay tại chỗ ngồi chứng quả A la hán; lại làm cho vô lượng, vô số chúng sanh cũng ngay tại chỗ ngồi, đối với quả Vô Thượng Bồ Đề không thối chuyển! Muốn thành tựu việc này nên học Bát nhã Ba la mật.

Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã suy nghĩ: Chừng nào ta mới được sống lâu vô lượng, được vô biên ánh sáng, tướng tốt trang nghiêm, người xem không chán, lúc bước đi hoa sen ngàn cánh thường đỡ chân làm cho trên mặt đất hiện tướng thiên bức luân, mỗi bước đi, đại địa chấn động mà không làm tổn hại hữu tình nào trên đất, khi muốn ngó lui, toàn thân đều xoay lại, chỗ chân đi dậm tận mé kim cương như bánh xe lăn đến đâu, đất cũng đều rung chuyển! Muốn được như vậy nên học Bát Nhã.

Đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật: Chừng nào toàn thân ta mới phóng được ánh sáng, chiếu khắp vô biên thế giới trong mười phương, ánh sáng chiếu đến đâu đều làm lợi ích lớn cho chúng hữu tình! Muốn được như vậy nên học Bát nhã Ba la mật.

Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã suy nghĩ: Khi tôi được Vô Thượng Chánh Đẳng Giác, nguyện quốc độ tôi không có tất cả các tên tham dục, sân giận, si mê, chúng hữu tình trong đó thành tựu diệu tuệ. Do sức tuệ này liền suy nghĩ bố thí, điều phục, an nhẫn, tinh tấn, tịch tịnh, quán kỹ, lìa các buông lung, tu hành phạm hạnh, tu từ, bi, hỷ, xả, không làm não hại hữu tình! Muốn viên mãn nguyện này nên học Bát nhã Ba la mật.

Đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật suy nghĩ: Khi ta được Vô Thượng Chánh Giác, việc hóa độ đã chu toàn, sau khi Niết bàn, Chánh pháp không có thời kỳ diệt tận, thường làm lợi lạc cho chúng hữu tình. Muốn viên mãn nguyện này nên học Bát nhã Ba la mật.

Đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, suy nghĩ: Khi ta được Vô Thượng Chánh Giác, nguyện cho chúng hữu tình trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương nghe danh ta đều được Vô Thượng Chánh Giác. Muốn viên mãn nguyện này nên học Bát nhã Ba la mật.

Này Xá lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát muốn thành tựu vô lượng vô biên công đức thì nên học Bát nhã Ba la mật.

 

2. Lại nữa, này Xá lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật thì nhất định sẽ thành tựu công đức như vậy. Lúc bấy giờ, tam thiên đại thiên thế giới, trời Tứ đại thiên vương đều rất vui mừng, đồng suy nghĩ: Nay chúng ta nên đem bốn bát dâng cúng Bồ Tát này, như ngày xưa Thiên vương dâng bát cúng Phật.

Khi ấy, tam thiên đại thiên thế giới, trời Ba mươi ba, trời Dạ ma, trời Đổ sử đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại đều rất vui mừng đồng suy nghĩ: Chúng ta nên mau đến cúng dường hầu cận Bồ Tát như vậy, làm cho A tu la hung ác giảm xuống, để cho chư thiên và các quyến thuộc tăng thêm.

Lúc ấy, trong tam thiên đại thiên thế giới, trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm, trời Đại quang, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh, trời Quảng, trời Thiểu quảng, trời Vô lượng quảng, trời Quảng quả, trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh đều vui mừng hớn hở, đồng suy nghĩ: Chúng ta nên thỉnh Bồ Tát như thế mau chứng Vô Thượng Chánh Giác, chuyển bánh xe pháp, làm lợi lạc cho tất cả hữu tình.

Này Xá lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, làm cho sáu Ba la mật tăng trưởng thì các thiện nam, thiện nữ ở thế giới kia đều rất vui mừng, đồng suy nghĩ: Chúng ta nên thỉnh Bồ Tát như vậy làm cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc, bạn bè quen biết. Khi ấy, ở thế giới kia, trời Tứ đại thiên vương cho đến trời Sắc cứu cánh đều hoan hỷ được diễm phúc, đồng suy nghĩ: Chúng ta nên bày các phương tiện làm cho Bồ Tát này lìa ác hạnh, từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành Phật, thường tu phạm hạnh. Vì sao? Vì nếu bị nhiễm sắc dục, sanh nơi Phạm thiên còn bị chướng ngại, huống là đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Vì thế, Bồ Tát nào đoạn dục, xuất gia tu phạm hạnh, có thể chứng đắc Vô Thượng Bồ Đề chứ không phải như kẻ chẳng đoạn dục.

Lúc ấy, Xá Lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Chư đại Bồ Tát cần phải có cha mẹ, vợ con, bạn thân không?

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Có Bồ Tát có đủ cha mẹ, vợ con, quyến thuộc, mà vẫn tu hạnh đại Bồ Tát. Hoặc có đại Bồ Tát không có vợ con, từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành Phật, thường tu phạm hạnh, vẫn còn đồng chơn. Hoặc có đại Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo, thị hiện hưởng thọ năm dục, nhàm bỏ xuất gia, mới đắc Vô Thượng Chánh Giác.

Này Xá lợi Tử! Ví như nhà huyễn thuật, hoặc học trò của người ấy giỏi nghề huyễn thuật, giả làm năm dục rồi cùng nhau vui chơi thỏa thích. Ý ông nghĩ sao? Huyễn làm ra đó có thật không?

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Đại Bồ Tát cũng vậy, vì muốn giáo hóa chúng hữu tình nên Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo, hóa hiện thọ hưởng năm dục, nhưng đại Bồ Tát này, ở trong năm dục rất là nhàm chán, không bị năm dục làm nhiễm ô, mà dùng vô lượng pháp môn quở trách các dục: Dục là lửa dữ thiêu đốt thân tâm; dục là dơ xấu làm ô nhiễm mình và người; dục là đồ tể thường làm hại cả ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại; dục là oán địch, thường rình tìm làm suy tổn; dục như đuốc cỏ; dục như quả đắng; dục như kiếm nhọn; dục như đống lửa; dục như đồ độc; dục như huyễn hoặc; dục như giếng tối. Bồ Tát dùng vô lượng thứ tội lỗi như vậy để quở trách các dục. Đã hiểu biết rõ tội lỗi các dục rồi, nào có chân thật mà thọ hưởng các dục. Chỉ vì làm lợi ích, giáo hóa chúng sanh mà Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo thị hiện thọ hưởng các dục. (Q.402, ĐBN)

 

Thích nghĩa:

(1). Bất khả đắc: (不可得) Không thể được. Phạm: An-upalambha. Tên khác của không. Dù có tìm cầu như thế nào đi nữa, cũng đều không thể biết được. Phật giáo cho rằng, sự tồn tại của tất cả các pháp, không có hình thái cố định bất biến, nếu có suy xét tìm cầu thì đều cũng không thể được, gọi là Bất khả đắc không. Danh từ bất khả đắc này bao hàm bốn nghĩa sau đây: 1. Không thể được. 2. Không tồn tại. 3. Không bám dính tự thể tồn tại, như các pháp chẳng thể được. 4. Đối với vật không xác định và không bản chất, tìm cũng không thể được. (Từ điển Phật Quang)

Đại Trí Độ Luận nói: “Ví như tướng lửa được hiển lộ nhờ các vật cháy; nếu lìa các vật cháy ra thì lửa là bất khả đắc”.

 

Sơ giải:

 

Toàn thể phẩm “Hoan Hỉ” của Hội thứ II tương đương với phẩm “Học Quán”, từ quyển 03 đến quyển 04, Hội thứ I, thuyết rằng: Bồ Tát muốn có đầy đủ uy lực, muốn có sức mạnh huyền diệu và công đức bất khả tư nghì phải thì phải học tất cả các pháp mầu Phật đạo nhất là Bát nhã Ba la mật, nhưng phải lấy vô trụ, vô xả, vô hộ, vô thủ, vô cần, vô tư, vô trước, vô sở đắc làm phương tiện nhưng phải nhớ Tánh Tướng tất cả pháp đều bất khả đắc. Đó là lời khuyên rất hữu ích cho người hành Bồ Tát đạo muốn đem lại an lạc, phúc lợi cho toàn thể chúng sanh.

Vô trụ là không trụ các chỗ, không trụ ở lành dữ, có không… Vô đắc là không được, không mất. Vô thủ là không nắm, không bỏ. Vô hộ là phạm tội hay không phạm đều không. Vô cần là tinh tấn hay giải đãi không khác. Vô tư, định hay loạn như nhau. Vô trước là tánh tướng đều không, tất cả đều bất khả đắc, nên không chấp trước v.v… Đó là những yếu chỉ rất cần thiết cho việc học hỏi, thọ trì Bát nhã Ba la mật.

Toàn thể phẩm này thuyết giảng chẳng khác phẩm “Học Quán” của Hội thứ I. Phẩm “Học Quán” đã thích nghĩa và lược giải đầy đủ. Nên, ở đây chúng tôi không muốn trùng tuyên nữa.

 

Vậy, nếu đọc tụng phẩm này gặp trở ngại, xin Quý vị quay lại tham khảo phẩm “Học Quán” Hội thứ I, ĐBN./.

 

---o0o---

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/08/2014(Xem: 12753)
Rất nhiều trong số những khái niệm và nhận thức của chúng ta được xây dựng dựa trên những định kiến và quy ước. Những gì được cho là tốt, xấu, hay, dở... ở một nơi này lại rất có thể sẽ không được đánh giá tương tự như thế ở một nơi khác. Đơn giản chỉ là vì những định kiến và quy ước khác nhau. Những phong bao đỏ lì xì trong dịp Tết chẳng hạn, rất quen thuộc ở một số nước Á Đông, nhưng lại có thể là xa lạ đối với đa số các nước Âu Mỹ. Ngược lại, hai người bạn lâu ngày gặp nhau ôm hôn trên đường phố để tỏ tình thân ái là việc rất bình thường trong xã hội Âu Mỹ, nhưng có thể mọi người đều sẽ lấy làm lạ nếu điều đó lại xảy ra trên một đường phố ở Á Đông...
17/08/2014(Xem: 16588)
Trong khoảng vài thập niên vừa qua, sự bùng nổ các phương tiện thông tin trên toàn thế giới, và nhất là trên khắp các thành phố lớn ở Việt Nam ta, đã mang đến những thuận lợi lớn lao thúc đẩy sự tiến bộ vượt bực trong hầu hết các lãnh vực khoa học, kỹ thuật, công nghệ, giáo dục... Nhưng bên cạnh đó, môi trường phát triển mới cũng đặt ra không ít những khó khăn thách thức, những ưu tư lo ngại về sự phát triển tinh thần của thế hệ trẻ trong tương lai.
17/08/2014(Xem: 12779)
Một buổi sáng thức dậy băn khoăn nghe tiếng chim rất lạ. Mỗi một nụ cười, ánh mắt, bước chân đi cũng dường như thay đổi. Lòng dạt dào những cảm xúc khó tả, và nghĩ đến điều gì cũng thấy như mình đã hiểu biết rất nhiều hơn. Ô hay, mình đã lớn!
17/08/2014(Xem: 28507)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này. Vì thế, thiền không phải là một lãnh vực siêu nhiên vượt ngoài phạm trù ý thức thông thường như nhiều người lầm tưởng, mà trái lại chính là sự soi rọi, chiếu sáng những trạng thái tâm thức hết sức bình thường mà mỗi người chúng ta đều đã và đang trải qua trong cuộc sống thường ngày.
17/08/2014(Xem: 27287)
Thiền đã trở thành một trong những tinh hoa của nhân loại. Ngày nay, từ Đông sang Tây người ta không còn xa lạ gì với thiền và những công năng kỳ diệu của nó. Nhiều trung tâm thực hành và hướng dẫn thực hành thiền quán đã được hình thành trên khắp châu Âu. Ở các nước Á Đông, với một truyền thống sâu xa hơn, thiền đã bắt rễ vào từng tự viện lớn cũng như nhỏ, và người ta gần như có thể tìm đến với thiền không mấy khó khăn.
17/08/2014(Xem: 13849)
Thời gian làm việc của chúng ta bao giờ cũng chiếm một tỷ lệ khá lớn trong cuộc sống hằng ngày, cho dù là ta đang giữ bất cứ vị trí nào trong xã hội. Vì thế, qua công việc chúng ta không chỉ nhận được những giá trị vật chất bằng vào sức lao động của bản thân, mà còn có cả những giá trị tinh thần trong cuộc sống...
15/08/2014(Xem: 10773)
Bộ Tỳ Ni Nhựt Dụng Thiết Yếu nầy, do Hòa Thượng Kiến Lão dựa theo Tâm Đại Từ Bi của Đức Phật, Ngài rút ra từ phẩm Tịnh Hạnh trong kinh HOA NGHIÊM, trong MẬT BỘ và trong các Kinh Luật, viết thành 53 bài kệ với 38 câu thần chú, rồi sắp xếp theo hệ thống, hợp thành một quyển. Lời văn dón gọn dễ nhớ, rất tiện cho kẻ sơ cơ nhập Đạo, làm khuôn thước cho thân tâm. Trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi của người tu, không vượt ra ngoài giới luật, khiến cho hành giả suốt ngày đêm 24 giờ, tất cả đều nằm trong khuôn khổ thánh thiện. Đây chính là thềm thang tiến tu Đạo nghiệp, là cửa ngỏ đi vào cảnh giới Phật Đà. Người tu hành quan trọng nhất là Điều Phục Vọng Tâm và An Trụ Chơn Tâm, vì tâm chính là chủ của thân, thân chỉ là dụng của tâm. Do đo,ù muốn An Trụ Chơn Tâm, muốn hiển lộ Tánh Giác thì phải thân đâu tâm đó, cần phải làm gì biết nấy, để khỏi chạy theo vọng niệm.
22/07/2014(Xem: 32423)
Ngôi tu viện Phật giáo vùng Tây Bắc của tiểu bang Victoria được Thượng tọa Thích Tâm Phương khai sơn từ năm 1990. Ban đầu tu viện tọa lạc ở vùng Broadmeadows. Đến năm 1995, tu viện vận động mua lại ngôi trường tiểu học Fawkner cũ có diện tích 8.000 m2 và xây dựng thành ngôi phạm vũ trang nghiêm mang tên Bồ tát Thích Quảng Đức từ năm 1997 đến năm 2003. Công trình xây dựng do kiến trúc sư Nguyễn Kiển Thành thiết kế, kiến lập theo kiểu chữ “Công” mang dáng dấp kiến trúc cổ kính Á Đông. Đại lễ khánh thành được tu viện tổ chức trọng thể vào các ngày 10, 11 và 12-10-2003. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm thờ tôn tượng đồng đức Phật Thích Ca thiền định. Tượng cao 2,50m, nặng khoảng 1,5 tấn. Phía trước và hai bên, tu viện đặt thờ nhiều tượng Phật, Bồ tát, Hộ Pháp Già Lam. Đến năm 2008, tu viện xây Tăng xá và Bảo tháp Tứ Ân. Bảo tháp 4 tầng, cao 14m, rộng 5m, trên nóc tôn trí tượng đức Phật A Di Đà cao 1,2m. Trong bảo tháp tôn thờ Xá Lợi Phật, tượng chư Phật, Bồ tát và linh cốt của Phật tử q
21/03/2014(Xem: 25676)
Những câu kệ, lời văn, tư tưởng, ý nghĩ trong suốt 365 trang giấy của quyển sách nhỏ này là tinh hoa, là kinh nghiệm tu tập, là trải nghiệm cuộc sống từ nhiều nguồn tư tưởng, hệ phái, pháp môn khác nhau, là suối nguồn tư duy, là hạnh nguyện, là sự hành đạo và chứng đạo của những bậc Lạt Ma Phật giáo Tây Tạng, những Tăng sĩ Miến Điện, những vị Thiền sư, những đạo sĩ Ấn Độ giáo, những cư sĩ học giả Đông Tây, và ngay cả những thi sĩ, văn hào, nghệ nhân trên thế giới, tuy nhiên, như nước trăm sông đều chảy xuôi về biển rộng, dù khác nhau trên mặt văn từ, ngôn ngữ hay hình thái diễn đạt, những nguồn tư tưởng tâm linh này đều nhắm chung về một đích hướng là “Yêu thương đời, giác ngộ người trong Từ Bi, Trí Tuệ và An Lạc.”
27/10/2013(Xem: 13610)
¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ DÒNG SUỐI TỪ (thơ Hạnh Cơ), trang 7 ¨ CẦU NGUYỆN CAO ĐĂNG PHẬT QUỐC (HĐGP & HĐĐH GHPGVNTNHK), trang 8 ¨ THÔNG TƯ VỀ LỄ TƯỞNG NIỆM ĐLHT THÍCH CHÍ TÍN (HT. Thích Tín Nghĩa), trang 9 ¨ SƠ LƯỢC TIỂU SỬ TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH CHÍ TÍN (Môn đồ pháp quyến),trang 10 ¨ NHỚ LẠI ÂN XƯA (Nguyên Siêu),trang 11 ¨ DUYÊN LÀNH HỌC PHẬT (ĐLHT. Thích Thắng Hoan), trang 12 ¨ HỌC PHẬT (HT Thích Tín Nghĩa), trang 13
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]