Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

59. Phẩm "Vô Tận" (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

17/07/202012:00(Xem: 9734)
59. Phẩm "Vô Tận" (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

  

59_Pham Vo Tan_Thien Buu_Hoang Lan


PHẨM "VÔ TẬN"


Phần sau quyển 347 cho đến hết quyển 348, Hội thứ I, ĐBN.

(Tương đương với phẩm "Bất Khả Tận" quyển thứ 21, MHBNBLM)

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le



 

Tóm lược:

 

Vì sắc bất khả tận nên đại Bồ Tát phải lấy Bát Nhã để hướng dẫn(1); vì thọ, tưởng, hành, thức bất khả tận, nên đại Bồ Tát phải lấy Bát Nhã để hướng dẫn; mười hai xứ bất khả tận, mười tám giới bất khả tận, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, Tứ đế, ba mươi bảy pháp trợ đạo, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao của chư Phật bất khả tận nên đại Bồ Tát phải lấy Bát nhã Ba la mật để hướng dẫn.

sắc như hư không bất khả tận nên đại Bồ Tát phải lấy Bát Nhã để hướng dẫn; vì thọ, tưởng, hành, thức như hư không bất khả tận nên đại Bồ Tát phải lấy Bát Nhã để hướng dẫn; mười hai xứ, mười tám giới như hư không bất khả tận, tứ thiền, tứ vô luợng, tứ định vô sắc, Nhất thiết trí v.v… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao của chư Phật như hư không, bất khả tận nên đại Bồ Tát phải lấy Bát nhã Ba la mật để hướng dẫn.

Vì đại Bồ Tát quán vô minh như hư không bất khả tận nên phải lấy Bát Nhã để hướng dẫn; vì đại Bồ Tát quán hành như hư không bất khả tận nên phải lấy Bát Nhã để hướng dẫn; vì đại Bồ Tát quán thức, quán danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử (mười hai chi duyên khởi) như hư không bất khả tận nên phải lấy Bát nhã Ba la mật để hướng dẫn.

Các đại Bồ Tát ngồi tòa Bồ đề, như thật quán sát mười hai chi duyên khởi giống như hư không, chẳng cùng tận, xa lìa nhị biên, nên có khả năng mau chứng Nhất thiết trí trí.

Nên biết, nếu đại Bồ Tát dựa vào hành tướng như hư không bất khả tận, lại dùng các phương tiện thiện xảo Bát Nhã hướng dẫn, như thật quán sát mười hai chi duyên khởi, sẽ không bị thối chuyển, chẳng đọa vào bậc Thanh văn và Độc giác, lại mau an trụ quả vị Giác ngộ tối cao.

Nếu đại Bồ Tát khi quán sát pháp duyên khởi như thế, chẳng thấy có pháp nào không có nhân mà sanh khởi; chẳng thấy có pháp nào không có nhân mà hoại diệt; chẳng thấy có pháp nào thường trụ bất diệt; chẳng thấy có pháp nào có ngã, hữu tình, dòng sanh mạng cho đến cái thấy cái biết; chẳng thấy có pháp nào thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly. (Q. 348, ĐBN)

Các đại Bồ Tát muốn tu hành Bát nhã Ba la mật thì phải quán sát duyên khởi như thế. Chỉ khi nào đại Bồ Tát tu hành thậm thâm Bát nhã Ba la mật thì đại Bồ Tát ấy chẳng thấy sắc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã v.v… Chỉ khi nào đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã đến chỗ thậm thâm, thì khi ấy đại Bồ Tát chẳng thấy mười hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ vô luợng, tứ định vô sắc, Nhất thiết trí trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã v.v…

Chỉ khi nào đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã đến chỗ thậm thâm, thì khi ấy đại Bồ Tát tuy tu hành Bát Nhã nhưng chẳng thấy Bát Nhã có sở hành; lại cũng chẳng thấy pháp năng hành Bát Nhã. Lúc đại Bồ Tát tu hành đến chỗ thậm thâm Bát Nhã, lúc ấy đại Bồ Tát tuy tu hành tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí nhưng chẳng thấy có sở hành tịnh lự cho đến bố thí; lại cũng chẳng thấy có pháp năng hành tịnh lự cho đến bố thí; lại cũng chẳng thấy có “cái thấy”.

Lúc đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã đến chỗ thậm thâm, lúc ấy đại Bồ Tát tuy an trụ pháp không nội mà chẳng thấy có sở trụ pháp không nội; lại cũng chẳng thấy có pháp năng thấy sở trụ pháp không nội, pháp không nội ngoại, pháp không không… cho đến pháp không không tánh tự tánh; lúc ấy đại Bồ Tát tuy an trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế v.v… mà chẳng thấy có sở trụ chơn như; lại cũng chẳng thấy có pháp năng thấy sở trụ pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế v.v…; lại cũng chẳng thấy có “cái thấy”.

Chỉ khi nào Bồ Tát tu hành Bát Nhã đến chỗ thậm thâm, thì khi ấy đại Bồ Tát tuy an trụ Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo mà chẳng thấy có sở trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; lại cũng chẳng thấy có pháp năng thấy sở trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Lúc đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã đến chỗ thậm thâm, lúc ấy đại Bồ Tát tuy tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, ba môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, thập vị Bồ Tát, ngũ nhãn, lục thần thông, Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, 18 pháp Phật bất cộng, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí, tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa, bốn quả Thanh văn, Bích Chi Phật, tất cả Bồ Tát hạnh, quả vị Giác ngộ tối cao… nhưng chẳng thấy pháp, chẳng thấy năng tu, sở tu. Các đại Bồ Tát đối với tất cả pháp hoàn toàn không có sở đắc, nên mới có thể hành Bát Nhã thậm thâm như thế.

Nếu đại Bồ Tát đối với tất cả pháp, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu hành Bát Nhã như thế, thì khi ấy ác ma rất lo buồn đau đớn như trúng phải tên độc, hay giống như người có thân nhân mới chết.

Nếu đại Bồ Tát thường an trụ hạnh an trụ tối thắng của Bát nhã Ba la mật thì trời, người, A tu la v.v... trong thế gian có rình tìm khuyết điểm của vị ấy cũng không thể tìm được, cũng chẳng có thể nào làm cho các vị ấy lo buồn. Vì vậy, nếu đại Bồ Tát muốn chứng quả vị Giác ngộ tối cao, thì phải siêng năng an trụ hạnh an trụ tối thắng Bát Nhã.

Lại nữa, nếu đại Bồ Tát có khả năng an trụ vững chắc hạnh an trụ tối thắng Bát Nhã thì có khả năng tu đầy đủ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát có khả năng tu hành chơn chính Bát nhã Ba la mật thậm thâm, thì có khả năng tu đầy đủ tất cả Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật không điên đảo, dùng tâm Nhất thiết trí mà tu lục Ba la mật, lại đem công đức tu các pháp ấy ban cho tất cả hữu tình cùng hưởng như nhau, rồi hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, thì đó là đại Bồ Tát có khả năng tu hành chơn chính Bát Nhã, lại có đủ khả năng tu đầy đủ sáu Ba la mật.

 

Thích nghĩa:

(1). Hướng dẫn: Nguyên văn chữ Hán là 引發, thường dịch là dẫn phát hay dẫn hướng, có nghĩa là đưa đến, đem đến. Như dịch trong câu: Thiện Hiện nên biết! Vì sắc vô tận nên đại Bồ Tát phải dẫn phát Bát nhã Ba la mật; vì thọ, tưởng, hành, thức vô tận nên đại Bồ Tát phải dẫn phát Bát nhã Ba la mật”. Chúng tôi dịch là hướng dẫn hay dẫn hướng. Nên câu trên có thể dịch là “Thiện Hiện nên biết! Vì sắc vô tận nên đại Bồ Tát phải lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn hướng; vì thọ, tưởng, hành, thức vô tận nên đại Bồ Tát phải lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn hướng”.

 

Lược giải:

 

Cảm thọ và ý thức là cái giúp con người sống, không ai có thể sống mà không cảm thọ, ý thức. Cảm thọ và ý thức giúp con người sống nhưng đôi khi lừa phỉnh con người, mà con người không tự biết. Xấu hay đẹp, ngon hay dở, lạnh hay nóng là tùy người. Người khỏe mạnh vào phòng lạnh thì cho là mát mẻ, trong khi người ốm vào phòng lạnh chịu không thấu. Người khỏe ăn cái gì cũng thấy ngon, người ốm ăn cái gì cũng thấy dở. Bản thân của con người không phải là máy phân tích, đo lường hay là hàn thử biểu. Do đó, có những cảm nhận khác nhau. Đó chỉ nói về những cảm thọ thuộc về vật chất. Sự khác biệt thuộc về ý thức lại càng to lớn hơn nữa. Ý thức về giá trị, về văn hóa, đạo đức, tâm linh… là những sai biệt tất nhiên trong cuộc đời thường. Chúng là những sai biệt... tưởng chừng như không thể nào san bằng được.

Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, thế giới nội hay ngoại là biểu tượng cho những sai biệt bất tận. Bát nhã Ba la mật là vô phân biệt, là pháp môn bất nhị. Vì vậy, Bát nhã Ba la mật mới có thể đối trị những sai biệt đó. Bát Nhã chiếu soi tới đâu thì tất cả pháp thiên sai vạn biệt đều phải phơi bày thật tướng của nó. Nên Bát Nhã mới có thể tháo gỡ được những trói buộc trôi nổi này.

Vì vậy, khi Bồ Tát một khi thâm nhập được Bát nhã Ba la mật, sống trong pháp không mới chẳng thấy sắc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã v.v… Bồ Tát cũng chẳng thấy mười hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ vô lương, tứ định vô sắc, Nhất thiết trí trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã v.v… Bồ Tát chẳng thấy tất cả pháp, chẳng thấy năng tu, sở tu, cả đến chẳng thấy Bát nhã Ba la mật là năng hành, sở hành. Vì đối với tất cả pháp, Bồ Tát biết tất cả pháp là không, hoàn toàn bất khả đắc, nên mới có thể tránh được trói buộc của cảm quan và ý thức mà an trụ trong Bát nhã Ba la mật.

Đó là Bồ Tát an trụ hạnh an trụ tối thắng của Bát nhã Ba la mật. “Nếu đại Bồ Tát có khả năng an trụ vững chắc hạnh an trụ tối thắng Bát nhã Ba la mật thì có khả năng tu đầy đủ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật không điên đảo, dùng tâm Nhất thiết trí mà tu lục Ba la mật, lại đem công đức tu các pháp ấy ban cho tất cả hữu tình cùng hưởng như nhau, rồi hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, thì đó là đại Bồ Tát có khả năng tu hành chơn chính Bát nhã Ba la mật, lại có đủ khả năng tu đầy đủ sáu Ba la mật”.

 

Nhưng đó không phải là hạnh dễ hành. Kinh nói: “Chỉ khi nào đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật đến chỗ thậm thâm, thì khi ấy đại Bồ Tát tuy tu hành Bát nhã Ba la mật nhưng chẳng thấy Bát nhã Ba la mật có sở hành; lại cũng chẳng thấy pháp năng hành Bát nhã Ba la mật. Lúc đại Bồ Tát tu hành đến chỗ thậm thâm Bát nhã Ba la mật, lúc ấy đại Bồ Tát tuy tu hành tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí nhưng chẳng thấy có sở hành tịnh lự cho đến bố thí; lại cũng chẳng thấy có pháp năng hành tịnh lự cho đến bố thí; lại cũng chẳng thấy có “cái thấy”.

 

Tu hành Bát Nhã đến chỗ thậm thâm như vậy, thời chẳng thấy năng hành sở hành Bát nhã Ba la mật, chẳng thấy người hành, pháp hành, cũng lại chẳng thấy có “cái thấy” đó. Hành như vô sự, vô đạo hành là hành Bát nhã Ba la mật. Nên không thấy không biết: Không thấy sở duyên, không thấy sở trụ là không sở hành, thì không có gì ngăn ngại, trói buộc nữa.

Đó là chỗ thâm áo: Hành như vô hành là hành Bát nhã Ba la mật. Nếu những ai nắm được giáo lý này mà tu hành thì có thể tháo gỡ những rối rắm trói buộc của tâm và tâm sở pháp mà thành đạo tướng trí./.

 

---o0o---

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/08/2014(Xem: 12753)
Rất nhiều trong số những khái niệm và nhận thức của chúng ta được xây dựng dựa trên những định kiến và quy ước. Những gì được cho là tốt, xấu, hay, dở... ở một nơi này lại rất có thể sẽ không được đánh giá tương tự như thế ở một nơi khác. Đơn giản chỉ là vì những định kiến và quy ước khác nhau. Những phong bao đỏ lì xì trong dịp Tết chẳng hạn, rất quen thuộc ở một số nước Á Đông, nhưng lại có thể là xa lạ đối với đa số các nước Âu Mỹ. Ngược lại, hai người bạn lâu ngày gặp nhau ôm hôn trên đường phố để tỏ tình thân ái là việc rất bình thường trong xã hội Âu Mỹ, nhưng có thể mọi người đều sẽ lấy làm lạ nếu điều đó lại xảy ra trên một đường phố ở Á Đông...
17/08/2014(Xem: 16588)
Trong khoảng vài thập niên vừa qua, sự bùng nổ các phương tiện thông tin trên toàn thế giới, và nhất là trên khắp các thành phố lớn ở Việt Nam ta, đã mang đến những thuận lợi lớn lao thúc đẩy sự tiến bộ vượt bực trong hầu hết các lãnh vực khoa học, kỹ thuật, công nghệ, giáo dục... Nhưng bên cạnh đó, môi trường phát triển mới cũng đặt ra không ít những khó khăn thách thức, những ưu tư lo ngại về sự phát triển tinh thần của thế hệ trẻ trong tương lai.
17/08/2014(Xem: 12779)
Một buổi sáng thức dậy băn khoăn nghe tiếng chim rất lạ. Mỗi một nụ cười, ánh mắt, bước chân đi cũng dường như thay đổi. Lòng dạt dào những cảm xúc khó tả, và nghĩ đến điều gì cũng thấy như mình đã hiểu biết rất nhiều hơn. Ô hay, mình đã lớn!
17/08/2014(Xem: 28507)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này. Vì thế, thiền không phải là một lãnh vực siêu nhiên vượt ngoài phạm trù ý thức thông thường như nhiều người lầm tưởng, mà trái lại chính là sự soi rọi, chiếu sáng những trạng thái tâm thức hết sức bình thường mà mỗi người chúng ta đều đã và đang trải qua trong cuộc sống thường ngày.
17/08/2014(Xem: 27287)
Thiền đã trở thành một trong những tinh hoa của nhân loại. Ngày nay, từ Đông sang Tây người ta không còn xa lạ gì với thiền và những công năng kỳ diệu của nó. Nhiều trung tâm thực hành và hướng dẫn thực hành thiền quán đã được hình thành trên khắp châu Âu. Ở các nước Á Đông, với một truyền thống sâu xa hơn, thiền đã bắt rễ vào từng tự viện lớn cũng như nhỏ, và người ta gần như có thể tìm đến với thiền không mấy khó khăn.
17/08/2014(Xem: 13849)
Thời gian làm việc của chúng ta bao giờ cũng chiếm một tỷ lệ khá lớn trong cuộc sống hằng ngày, cho dù là ta đang giữ bất cứ vị trí nào trong xã hội. Vì thế, qua công việc chúng ta không chỉ nhận được những giá trị vật chất bằng vào sức lao động của bản thân, mà còn có cả những giá trị tinh thần trong cuộc sống...
15/08/2014(Xem: 10773)
Bộ Tỳ Ni Nhựt Dụng Thiết Yếu nầy, do Hòa Thượng Kiến Lão dựa theo Tâm Đại Từ Bi của Đức Phật, Ngài rút ra từ phẩm Tịnh Hạnh trong kinh HOA NGHIÊM, trong MẬT BỘ và trong các Kinh Luật, viết thành 53 bài kệ với 38 câu thần chú, rồi sắp xếp theo hệ thống, hợp thành một quyển. Lời văn dón gọn dễ nhớ, rất tiện cho kẻ sơ cơ nhập Đạo, làm khuôn thước cho thân tâm. Trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi của người tu, không vượt ra ngoài giới luật, khiến cho hành giả suốt ngày đêm 24 giờ, tất cả đều nằm trong khuôn khổ thánh thiện. Đây chính là thềm thang tiến tu Đạo nghiệp, là cửa ngỏ đi vào cảnh giới Phật Đà. Người tu hành quan trọng nhất là Điều Phục Vọng Tâm và An Trụ Chơn Tâm, vì tâm chính là chủ của thân, thân chỉ là dụng của tâm. Do đo,ù muốn An Trụ Chơn Tâm, muốn hiển lộ Tánh Giác thì phải thân đâu tâm đó, cần phải làm gì biết nấy, để khỏi chạy theo vọng niệm.
22/07/2014(Xem: 32423)
Ngôi tu viện Phật giáo vùng Tây Bắc của tiểu bang Victoria được Thượng tọa Thích Tâm Phương khai sơn từ năm 1990. Ban đầu tu viện tọa lạc ở vùng Broadmeadows. Đến năm 1995, tu viện vận động mua lại ngôi trường tiểu học Fawkner cũ có diện tích 8.000 m2 và xây dựng thành ngôi phạm vũ trang nghiêm mang tên Bồ tát Thích Quảng Đức từ năm 1997 đến năm 2003. Công trình xây dựng do kiến trúc sư Nguyễn Kiển Thành thiết kế, kiến lập theo kiểu chữ “Công” mang dáng dấp kiến trúc cổ kính Á Đông. Đại lễ khánh thành được tu viện tổ chức trọng thể vào các ngày 10, 11 và 12-10-2003. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm thờ tôn tượng đồng đức Phật Thích Ca thiền định. Tượng cao 2,50m, nặng khoảng 1,5 tấn. Phía trước và hai bên, tu viện đặt thờ nhiều tượng Phật, Bồ tát, Hộ Pháp Già Lam. Đến năm 2008, tu viện xây Tăng xá và Bảo tháp Tứ Ân. Bảo tháp 4 tầng, cao 14m, rộng 5m, trên nóc tôn trí tượng đức Phật A Di Đà cao 1,2m. Trong bảo tháp tôn thờ Xá Lợi Phật, tượng chư Phật, Bồ tát và linh cốt của Phật tử q
21/03/2014(Xem: 25676)
Những câu kệ, lời văn, tư tưởng, ý nghĩ trong suốt 365 trang giấy của quyển sách nhỏ này là tinh hoa, là kinh nghiệm tu tập, là trải nghiệm cuộc sống từ nhiều nguồn tư tưởng, hệ phái, pháp môn khác nhau, là suối nguồn tư duy, là hạnh nguyện, là sự hành đạo và chứng đạo của những bậc Lạt Ma Phật giáo Tây Tạng, những Tăng sĩ Miến Điện, những vị Thiền sư, những đạo sĩ Ấn Độ giáo, những cư sĩ học giả Đông Tây, và ngay cả những thi sĩ, văn hào, nghệ nhân trên thế giới, tuy nhiên, như nước trăm sông đều chảy xuôi về biển rộng, dù khác nhau trên mặt văn từ, ngôn ngữ hay hình thái diễn đạt, những nguồn tư tưởng tâm linh này đều nhắm chung về một đích hướng là “Yêu thương đời, giác ngộ người trong Từ Bi, Trí Tuệ và An Lạc.”
27/10/2013(Xem: 13610)
¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ DÒNG SUỐI TỪ (thơ Hạnh Cơ), trang 7 ¨ CẦU NGUYỆN CAO ĐĂNG PHẬT QUỐC (HĐGP & HĐĐH GHPGVNTNHK), trang 8 ¨ THÔNG TƯ VỀ LỄ TƯỞNG NIỆM ĐLHT THÍCH CHÍ TÍN (HT. Thích Tín Nghĩa), trang 9 ¨ SƠ LƯỢC TIỂU SỬ TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH CHÍ TÍN (Môn đồ pháp quyến),trang 10 ¨ NHỚ LẠI ÂN XƯA (Nguyên Siêu),trang 11 ¨ DUYÊN LÀNH HỌC PHẬT (ĐLHT. Thích Thắng Hoan), trang 12 ¨ HỌC PHẬT (HT Thích Tín Nghĩa), trang 13
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]