Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Báo Chánh Pháp (số đặc biệt Xuân Canh Tý 2020)

03/01/202010:12(Xem: 8510)
Báo Chánh Pháp (số đặc biệt Xuân Canh Tý 2020)
Bao Chanh Phap 98




Xuân Cảm

Sương mai mù mịt xóm nhỏ. Những hàng cây như yên lặng nín thở để đón nhận làn sương lạnh cuối đông. Lá cây ướt đẫm, tưởng chừng vừa được tắm dưới mưa. Long lanh nước đọng trên đầu những ngọn cỏ. Con quạ rủ lông trên nhánh cây phong. Có một nỗi buồn nào đó, một nỗi buồn rất cô liêu, lan nhẹ vào hồn khi không gian lắng xuống, tịch mịch.

Một thời tuổi xuân đã qua. Và nhiều mùa xuân đi qua. Đời người, có những giấc mơ chưa bao giờ đạt được và có thể sẽ không bao giờ chạm đến. Giấc mơ của một dân tộc, một đất nước hay một lãnh thổ, có khi cũng phải trải qua trăm năm, nghìn năm mới thành hiện thực.

Đã có mùa xuân Ả Rập với Tunisia, Ai Cập và Libya năm 2011 (1), ảnh hưởng lên một loạt các quốc gia Trung Đông theo Hồi giáo. Nhiều “mùa xuân” sau đó đã đến, nơi này, nơi kia. Nhưng xuân đến rồi lại đi. Những chế độ độc tài, với sự xâu xé tranh giành ảnh hưởng và trợ giúp từ các cường quốc phương Tây, tiếp tục tọa hưởng trên máu lệ dân đen.

Đó là những mùa xuân bất chợt, không ở lại lâu dài. Và những phận người trên các mảnh đất ấy tiếp tục mơ ước xuân sau.

Ngẫm cuộc tồn sinh trên một vài nước phương Đông mệnh danh văn hiến bốn-năm nghìn năm, lòng thường băn khoăn tự hỏi, vì sao và từ khi nào người ta đã đánh mất những mùa xuân. Sử xuân lật qua trên bốn nghìn lần mà thực tế thì được bao nhiêu mùa xuân thực sự là xuân? Khổ đau, thống hận vẫn ngày đêm chụp phủ xuống số đông cam phận.

Bản chất độc tài, hám vị của các nhà lãnh đạo, từ xưa đến nay, không khác nhau lắm: một khi đã nắm được quyền lực thì không muốn buông, và luôn tranh thủ thu vét quyền lợi ngay khi đang cầm quyền. “Con trời” ngày xưa còn nghĩ vận mệnh mình gắn theo vận nước lòng dân, thời gian trị vì có thể vài chục năm, trăm năm, nên cũng có thời gian nhìn đến thống khổ của trăm họ. Còn những “công bộc của dân” ngày nay, từ Đông sang Tây, hầu như chỉ chăm lo vị thế của mình trong giai đoạn ngắn hạn của nhiệm kỳ 4 năm, 8 năm hay 10 năm. Ngay trong nhiệm kỳ, phải thực hiện cho bằng được những gì mình muốn, rồi hết nhiệm kỳ ai sống ra sao mặc ai. Dẫm trên luật pháp, mua quan bán chức, tham nhũng hối lộ, dối trên gạt dưới, phá rừng, bán biển, cắt đất nhường biên, bòn rút của công, lạm dụng tài nguyên quốc gia... bao nhiêu việc xấu-ác cũng không từ, thất đức bao nhiêu cũng chẳng ngại; chỉ chăm chăm thu tóm lợi lộc về cho cá nhân, gia đình, đảng phái. Dân tình khốn khó khổ đau không bút nào tả hết, đến nỗi thảm trạng ngày nay chẳng khác năm xưa là mấy, thảm trạng mà cổ nhân một thời, từng đại cáo:

“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Để trong nước lòng dân oán hận

Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế

Gây thù kết oán trải mấy mươi năm

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.

Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.

... ... ...

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!” (2)

Lại nhớ quê nhà một thời tàn xuân oan nghiệt, thống nhất địa lý mà lại ly cách nhân tâm, đẩy xô triệu người vượt biển vượt biên, trăm nghìn nạn nhân vùi thây trong lòng đại dương, bỏ xương trên rừng sâu núi thẳm (3). Ai người đi tìm mùa xuân, ai người còn rơi nước mắt xót thương! Từ độ xuân tàn năm ấy, chưa thấy bóng xuân trở lại.

Rồi cũng tàn xuân với cái chết của một lãnh đạo “mơ xuân,” dẫn đến phong trào sinh viên Cửa Thiên An (4). Tuổi trẻ bừng lên sức sống, như khí xuân ngập tràn khắp một trời quê hương Lão Đam, Khổng Tử... Nhưng rồi, xuân tàn thì giấc mộng tan theo. Xuân tàn năm ấy, chưa thấy thoáng hiện trở lại bao giờ.

Còn thấy gì, những mùa xuân tới, những mùa xuân sau!

Có chăng mùa xuân cho quê hương? Có chăng mùa xuân cho Hương Cảng? Có chăng mùa xuân xinh tươi cho tuổi trẻ toàn thế giới?

Biến đổi khí hậu, đe dọa hành tinh trong 50 năm, 100 năm tới. Nào là biển dâng, băng lở, đất sụt, bão giông cuồng nộ, rừng cháy dữ dội... liên tục hoành hành khắp nơi trên địa cầu. Nhưng 50 năm thì rất gần cho tuổi trẻ báo động, lên tiếng, đứng dậy hành động, còn những lãnh đạo già nua (tuổi đáng ông nội bà ngoại) thì không thấy lý do gì để phải quan tâm, vì những năm sắp tới, họ biết chắc sẽ không còn hiện hữu trên đời này. 50 năm đối với những lão gia tham lam, bủn xỉn (chỉ thấy lợi nơi tài nguyên), hãy còn xa lắm! Sống chụp giựt ngày hôm nay, vơ vét cho đầy những túi tham rỗng đáy, thổi cho phồng to những chức danh và thành tựu lừa dối, mỵ dân...

Mùa xuân, ôi mùa xuân cho quê hương, mùa xuân cho hành tinh!

Những nguyện ước trọng đại, những niềm vui to lớn dường như chỉ đến trong giấc mộng đêm xuân. Đêm xuân qua rồi, mộng bay vút như cánh chim.

Nhưng xuân qua rồi xuân lại đến. Xuân tàn, hoa rụng. Xuân đến, hoa lại nở.

Và dù tâm cảnh của người có khi rất điêu tàn, rã rời theo năm tháng, xuân bao giờ cũng đẹp (5). Vâng, xuân bao giờ cũng đẹp và thực sự đẹp trong hiện tại. Đừng mơ giấc mơ xuân tương lai. Mỗi người từ giây phút này, biết giữ trong tim sự chân thành, tha thiết yêu thương đời thống khổ, tận tụy hiến dâng tài năng và thời giờ cho sự nẩy mầm đơm hoa của lẽ thiện, lẽ chân, thì mùa xuân hiển hiện.

California, ngày 01 tháng 01 năm 2020

Vĩnh Hảo

www.vinhhao.info

______________

1) Mùa xuân Ả Rập (Arab Spring) khởi đầu từ cuộc biểu tình rộng lớn của dân Tunisia sau sự tự thiêu của công nhân Mohamed Bouazizi để phản đối tham nhũng và bạo lực của cảnh sát. Phương Tây gọi chung cho những cuộc cách mạng liên đới từ nhiều quốc gia Ả Rập là “Cách Mạng Hoa Lài,” dẫn đến sự sụp đổ của 3 chính phủ trong cùng năm là Tunisia (14/01/2011), Ai Cập (11/02/2011) và Libya (20/10/2011).

2) Trích từ Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi (1380 – 1442), bản dịch Ngô Tất Tố.

3) Biến cố 30.4.1975.

4) Cựu Tổng bí thư Đảng Cộng Sản Trung quốc Hồ Diệu Bang—là người có chủ trương cải cách dân chủ, mất ngày 15.4.1989, hàng trăm ngàn sinh viên tổ chức tang lễ lớn cho ông, rồi dấy lên phong trào đòi hỏi tự do dân chủ vang dội quốc tế. Phong trào biểu tình của sinh viên Trung quốc kéo dài từ giữa tháng 4.1989 cho đến ngày 04.6.1989 thì bị quân đội cộng sản dập tắt. Số sinh viên và lương dân bị thiệt mạng trong đêm 04.6.1989 cho đến nay vẫn chưa có thống kê chính xác, nhưng báo chí và người trong cuộc phỏng chừng có khoảng 10 nghìn sinh mệnh bị bắn và nghiền nát dưới bánh xe tăng.

5) Ý của thi hào Nguyễn Du (1766 – 1820): “Nhân tự tiêu điều, xuân tự hảo” - người dù có tiêu điều xác xơ, xuân tự nó vẫn đẹp (thơ chữ Hán, bài Xuân Tiêu Lữ Thứ).



Mục Lục

Báo Xuân Chánh Pháp:

¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2

¨ THÔNG BẠCH XUÂN CANH TÝ 2020 (Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTNHK)

¨ THƯ CHÚC XUÂN của CHỦ NHIỆM (HT.Thích Nguyên Trí)

¨ THƯ CHÚC XUÂN CANH TÝ 2020 (Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHK)

¨ TÂM THƯ VẬN ĐỘNG MUA CƠ SỞ MỚI LÀM CHÙA BÁT NHÃ (HT. Thích Nguyên Trí)

¨ BIỆN TRUNG BIÊN LUẬN TỤNG THÍCH (HT. Thích Thắng Hoan dịch), trang 4

¨ CÂU CHUYỆN THIỀN ẨN NGỮ (ĐNT Tín Nghĩa), trang 7

¨ MÙA XUÂN CỦA HIỆN TẠI (Nguyễn Thế Đăng), trang 9

¨ PHẬT DẠY CÁCH NHIẾP THỌ TÀI SẢN (Quảng Tánh), trang 11

¨ LẮNG NGHE (NS. Thích Nữ Trí Hải dịch), trang 13

¨ VẤN ĐỀ THẮP HƯƠNG TRONG KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO (Chúc Phú), trang 15

¨ BẢN LÊN TIẾNG V/V KÊU GỌI TỰ DO DÂN CHỦ NHÂN QUYỀN CHO HONGKONG (VP Điều Hợp Liên Châu GHPGVNTN), tr. 18

¨ THƯ CUNG THỈNH THAM DỰ NGÀY VỀ NGUỒN KỲ 12 TẠI ÚC CHÂU (Tăng Ni VN Hải Ngoại), tr. 25

¨ TỪ BI - CỘI NGUỒN CỦA HẠNH PHÚC (Tuệ Uyển dịch), trang 26

¨ ĐẠO PHẬT TIẾP CẬN VỚI ĐỜI SỐNG (Thị Giới), trang 30

¨ DẪN LUẬN NGÔN NGỮ PHẬT GIÁO (Phước Nguyên), trang 33

¨ HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC & TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN (Thích Thanh Hòa), tr. 42

¨ TÔN GIẢ VISÀLI... (Thích Nữ Giới Hương), trang 48

¨ BÀI HỌC TỪ NGHỊCH CẢNH CHƯỚNG DUYÊN (Như Nhiên Thích Tánh Tuệ), trang 54

¨ NIỀM TIN VÀ SỰ SỐNG – Câu chuyện dưới cờ (Nhóm Áo Lam), trang 56

¨ GIÁ TRỊ CỦA NỤ CƯỜI (Nguyễn Minh Tiến), trang 58

¨ TRẦN GIAN LÀ QUÁN TRỌ (Thích nữ Hằng Như), trang 61

¨ NẤU CHAY: BÚN CHAY NGÀY RẰM (Nguyên Hân), trang 64

¨ STORY OF THERA BHADDIYA, THE SHORT ONE (Daw Mya Tin), trang 67

¨ VỀ HẠNH BỐ THÍ (Bình Anson), trang 68

¨ THAY CHỒNG ĐI THI (Nguyễn Văn Sâm), trang 73

¨ QUÊN VÀ NHỚ (Chân Hiền Tâm), trang 76

¨ CHỮ VẠN TRONG PHẬT GIÁO (TM Ngô Tằng Giao), trang 80

¨ TUỔI TRẺ NHƯ KIM CƯƠNG (Uyên Nguyên), trang 85

¨ ĐÔI DÉP (Lê Bích Sơn), trang 87

¨ MẬT ONG (Bs. Nguyễn Ý Đức), trang 88

¨ HỘI AN NAM PHẬT HỌC TRUNG KỲ (Nguyễn Lang), trang 91

¨ KẺ ĐỘC HÀNH MIỆT MÀI ĐI TÌM CHÍNH MÌNH (TN. Huệ Trân), trang 96

¨ GIỮA CÁC NGÃ RẼ PHÂN HÓA (Nguyên Giác), trang 98

¨ CHỈNH ĐỐN LẠI CHÍNH TA VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC (Tâm Thường Định), trang 102

¨ TRUYỆN CỰC NGẮN (Steven N.), trang 108

¨ NGHE XUÂN HÀNH CỦA PHẠM DUY... (Phan Tấn Hải), trang 110

¨ TÔN GIẢ MỤC KIỀN LIÊN (Đức Hạnh), trang 115

¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 118

¨ CÓ NGƯỜI NHƯ NƯỚC (Quỳnh Chi dịch), trang 126

¨ VỀ NGUỒN (Toại Khanh), trang 128

¨ CẢNH ĐỒNG TRẤN (Tiểu Lục Thần Phong) trang 132

¨ LÀM VUA TRONG 7 NGÀY (Quảng Huệ), trang 134

¨ CHỢ ÂM PHỦ (TK Vĩnh Hữu), trang 138

¨ NỖI LÒNG VIỄN XỨ (Nhuận Hùng), trang 143

¨ NÚI XANH MÂY HỒNG – truyện dài (Vĩnh Hảo), trang 147

¨ CÙNG VỚI THƠ CỦA: Thắng Hoan, Vũ Đình Liên, Mãn Đường Hồng, Thích nữ Thánh Nhã, Thích Tâm Tường, Phù Du, Thích nữ Huệ Trân, Quảng Tánh Trần Cầm, Trịnh Gia Mỹ, Thích Tánh Tuệ, Nguyễn Thị Khánh Minh, Chúc Hiền, Minh Đạo, Tuệ Nha, Pháp Hoan, Trịnh Y Thư, TM Ngô Tằng Giao, Chủng Hạnh, Đạt Giả, Trần Thiên Thị, Trầm Tử Thiêng, Tánh Thiện, Thích nữ Giới Định, Vi Linh, Hồ Thanh Nhã, Hoang Phong, Tiểu Lục Thần Phong, Du Tâm Lãng Tử, Chiêu Anh Nguyễn, Đồng Thiện, Diệu Viên, Thục Uyên...


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/02/2011(Xem: 15522)
Hết lòng trân quí và ghi nhớ ân đức sâu dầy của sư Sán Nhiên đã biên soạn và hiệu đính tập sách này, cũng như đã hoan hỷ cho phép Hội Thiện Đức ấn tống nhằm góp phần vào công cuộc hoằng hóa Phật pháp đem đến lợi lạc cho nhiều người. Hội Thiện Đức xin biết ơn sự ủng hộ tinh thần và tán thán sự phát tâm đóng góp tịnh tài của quý Phật tử và ân nhân cho công trình ấn tống này. Xin tri ân chị Thân Thục & anh Thân Phúc đánh máy tập sách; anh Thân Hòa trình bày sách bao gồm thiết kế bìa sách; anh Chúc Giới, anh Thiện Tánh, cùng anh Chúc Tùng cung cấp tài liệu và hình ảnh; Tâm Hân Huệ thỉnh ý sư Sán Nhiên; chị Tâm Thiện, chị Chơn Hạnh Bạch, chị Diệu Âm, Thân Hồng, cùng anh chị Lê Lộc (Lancaster, PA) phụ giúp sổ sách, liên lạc, và kêu gọi cho quỹ ấn tống.
22/01/2011(Xem: 16182)
Đại Hội Khoáng Đại kỳ 04 được tổ chức tại Chùa Pháp Hoa, Nam Úc
10/01/2011(Xem: 57134)
Website Liên Kết từ Trang Nhà Quảng Đức
13/12/2010(Xem: 12057)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
10/12/2010(Xem: 12929)
Tập sách này gồm 2 bài giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV, được ngài Rajiv Mehrotra – đệ tử của đức Đạt-lai Lạt-ma – trực tiếp ban cho chúng tôi cùng với 4 bài giảng khác nữa, kèm theo một văn bản cho phép chuyển dịch tất cả sang Việt ngữ và phát hành ở dạng song ngữ Anh-Việt. Phát tâm Bồ-đề là bài giảng được chúng tôi hoàn tất trước tiên và được chọn làm tựa đề cho tập sách này vì tính phổ quát của nó đối với mọi người Phật tử. Bài giảng này có nội dung khuyến khích và hướng dẫn việc phát tâm Bồ-đề, một yêu cầu tối thiết yếu đối với bất cứ ai muốn bước chân vào con đường tu tập theo Phật giáo Đại thừa.
09/11/2010(Xem: 8204)
Các Sa-di-ni thân mến, Chọn “đi tu” làm Sa-di-ni (P. Sāmaṇeri, S. Śrāmaṇeri, 沙彌尼), sau đó, làm Thức-xoa (P. Sikkhamānā. S. Śikṣamānā, 式叉摩那),[1] Tỳ-kheo-ni (P. bhikkhuni, S. bhikṣuṇī, 比丘尼), các con đang đi theo lý tưởng cao cả và hạnh nguyện độ sinh của đức Phật, các bậc Bồ-tát, các Thánh tăng trong lịch sử hơn 2.600 năm của đạo Phật. Đó là diễm phúc lớn của các con và gia đình các con ở đời này. Sa-di-ni có nghĩa đen là “Sa-môn tử” (沙門子), tức người đang tập hạnh làm Sa-môn (P. Sāmaṇa, 沙門). Các Sa-di-ni tuổi thiếu nhi được gọi là “cô tiểu” ở miền Nam, hay “cô điệu” ở miền Trung hoặc “sư bác” ở miền Bắc. Sa-môn là từ chỉ cho các tu sĩ vô thần tại Ấn Độ trong thời cổ đại, không chấp nhận đạo Bà-la-môn đa thần, không chấp nhận Thượng đế, không chấp nhận số phận, cách tu tín ngưỡng và ép xác của đạo Bà-la-môn. Đạo Phật do đức Phật Thích-ca sáng lập là một trong các trường phái Sa-môn, mở ra con đường tỉnh thức, giác ngộ và giải thoát cho nhân loại khỏi tất cả nỗi khổ và niềm đau.
08/10/2010(Xem: 5692)
Truyện thiền không những có tính tôn giáo, triết lý mà còn có giá trị văn học cao. Nó mang ý nghĩa siêu hình, với hình thức ngụ ngôn, bố cục giản lược, trào lộng, kết thúc đột ngột, lại dùng những phương pháp tu từ đặc biệt như điệp ngữ, nghịch lý, đa nghĩa, chữi để mà khen, buông thỏng nửa chừng không kết thúc, lấy câu hỏi để trả lời câu hỏi vv…Đó là đặc sắc của truyện thiền. Cho nên đọc chuyện thiền là vừa học đạo[1] vừa thưởng thức một tác phẩm văn chương kỳ thú.
20/09/2010(Xem: 7476)
ĐứcThế Tôn thường nói: “Cái gì vô thường là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì vô ngã cần phải như thật quán với chánh trí tuệ là 'Cái này khôngphải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã củatôi.'” Một câu hỏi được đặt ra: Tại sao tư tưởng vô ngã lại được diễn đạt như là hệ quả từ thực tế khổ? Lý do để giải thích có thể rút ra từ Tiểu kinh Saccaka (Cūḷasaccaka Sutta), Trung Bộ kinh... Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
28/06/2010(Xem: 21307)
Bản dịch Việt Bích Nham lục được thực hiện với một tấm lòng tôn kính, cảm phục tài đức của giáo sư Wilhelm Gundert (12. 4. 1880-3. 8. 1971). Vì W. Gundert đã giới thiệu tường tận về tác phẩm độc nhất vô nhị này nên dịch giả người Việt hạn chế tối đa những lời dư thừa, chỉ đề cập đến nguyên tắc dịch, một vài nét đặc biệt cũng như kĩ thuật được áp dụng trong bản dịch Việt:
08/01/2009(Xem: 13490)
Trong tập sách này, tác giả Nguyễn Tường Bách trình bày lại các chặng đường quan trọng trong quá trình phát triển của ngành vật lý và triết học về khoa học tự nhiên trong hơn 25 thế kỷ qua. Tác giả chú trọng đặc biệt đến sự phát triển của hai lý thuyết vật lý quan trọng nhất trong thế kỷ 20, thuyết tương đối và thuyết lượng tử cũng như ý nghĩa triết học của chúng. Chính những lý thuyết này sẽ giúp bạn đọc hiểu được mối liên hệ với triết học và tư tưởng Phật giáo ở phần sau. Vẫn xoay quanh những câu hỏi muôn đời của loài người "vũ trụ là gì, từ đâu mà có?", "thực tại trước mắt chúng ta thực chất là gì?", "bản chất của thực tại vật chất là gì?"…, tác giả dẫn dắt chúng ta theo một hành trình từ vật lý đến triết học rồi gõ cửa và dừng chân ở tư tưởng Phật giáo để lý giải thế giới hiện tượng. "Cuộc sống là một dòng tâm thức bất tận, không đầu không đuôi… Hãy đơn giản hóa một đời thành một ngày. Đời này của chúng ta như là ngày hôm nay…"
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com