Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 03: Giới Đàn Tăng

19/02/201918:16(Xem: 5375)
Phần 03: Giới Đàn Tăng

GIỚI ĐÀN TĂNG 

Soạn dịch: H.T THÍCH THIỆN HÒA

(Nguyên bản chữ Hán)

PHẦN 3

VÀI ĐIỀU CẦN KHI KIẾT

VÀ GIẢI CÁC GIỚI

---

 

            Kiết và giải các giới đây có nhiều thứ không đồng đều là Như Lai phương tiện tùy thuận, vì lợi ích cho các đệ tử.

-         Một là kiết đại giới, vì thu nhiếp Tăng cùng ở một chỗ, để cho khỏi tội biệt chúng.

-         Hai là kiết giới y, vì nhiếp y thuộc về người để cho khỏi tội rời y mà ngủ.

-         Ba là định liệu trù khố (nhà bếp, nhà kho) vì thu xếp thức ăn, ngăn Tăng, để cho khỏi tội nấu cùng

Kiết giới tràng, để cho chúng khỏi mệt ngủ.

Xưa mỗi tháng Bố tát 2 lần, Tăng họp về một chỗ, khi Yết ma họp cả chúng mệt mỏi, nên Phật cho kiết giới tràng riêng biệt, tùy theo Yết ma lên họp đủ số Tăng thôi, còn ra ở ngoài đại giới mà nghỉ.

- Trong luận Tỳ Bà sa nói: Tăng kiết đại giới rất lớn, bề dọc bề ngang chừng 10 Câu lô xá (Câu lô xá: 4 cánh làm một cung, 500 cung làm một câu lô xá, nay chừng 1.000 thước; 10 câu lô xá 10.000 thước).

Vì sao Tăng kiết đại giới thông cả tụ lạc?

- Vì giới có oai lực, ác ma không được tiện, lại ở trong giới Thiện Thần thường ủng hộ, cho nên vì Đàn việt mà thông kết cả tụ lạc. Ni kiết giới thời không đồng. (Kiết hẹp hơn Tăng).

Trong luật Thiện Kiến nói: Nếu Tỳ Kheo Tăng kiết giới rồi là không phải giới của Tỳ Kheo Ni, giới Tỳ Kheo Ni cũng không phải Tỳ Kheo Tăng, nhưng trên giới Tỳ Kheo Ni, Tỳ Kheo Tăng Trên giới Tỳ Kheo Tăng, Tỳ Kheo Ni cũng được kiết giới trên, mà giới Tỳ Kheo Tăng không mất. Như trên giường có chỗ ngồi đặt nệm lên, lấy nệm, nhưng chỗ ngồi còn.

Trong phẩm Thuyết Giới có nói: Phật thường cho các Tỳ Kheo đến trong thành La Duyệt nói giới rất mệt nhọc. Vì cả một xứ lớn họp về một chỗ. Các thầy Tỳ Kheo đem duyên đấy bạch Phật. Phật bảo: Từ nay trở đi, theo chỗ Trụ xứ kiết giới, rồi nói giới: Trong Trụ xứ ấy có cựu trụ Tỳ Kheo, nên trước đặt tướng nêu, hoặc núi, cây, thành, hào, rừng, ao, làng, nhà, tùy theo chỗ có vật có thể làm tướng nêu, ở trên chỗ giới nêu, liền viết đây là giới gì?

Trong luật Thiện Kiến: Giới núi hình rất nhỏ như hình con voi, đá rất nhỏ chừng 30 cân. Không được lấy đá vụn d8at5 tướng nêu. Giới cây rất nhỏ, chừng bằng cái bát lớn, không được lấy cây khô đặt tướng nêu. Giới rừng rất nhỏ chừng 4 cây liên tiếp nhau. Rừng cỏ, rừng tre, sậy, thể nó rỗng, không được bền, không được đặt tướng nêu. Giới ao, cầu ao tự nhiên có nước mới được làm. Nếu đường nước thông vào ruộng, hoặc bể cạn đựng nước đều không được đặt tướng nêu.

Như thế phân biệt đặt tướng rồi, đánh kiền chùy, Tỳ Kheo trong giới đều cùng họp một chốn, không được thọ dục, đợi chúng Tăng đến đủ, Tỳ Kheo cựu trụ lễ Thượng tọa một lễ, bạch rằng:

Ngày nay kiết giới, trước thỉnh đại chúng đến gần đại giới xem ngó giới hạn bốn phía, sau rồi để cho tiện tác pháp Yết ma.

Phép tắc kiết giới như trước.

KIẾT HẠ AN CƯ

---

 

            Vì sao mỗi năm phải kiết hạ an cư?

           

DUYÊN. – Khi bấy giờ Lục quần Tỳ Kheo ở trong tất cả thời đi dạo trong nhân gian, các cư sĩ thấy thế đều chê hiềm nói: “Các ngoại đạo còn biết ba tháng an cư, đến như chim muông còn có hang tổ () để nghỉ ở, huống là Sa môn Thích tử mà chẳng biết hổ thẹn, tất cả thời (3 mùa) dạo đi trong nhân gian, gặp nước đẩy lên trôi mất y bát, dặm chết cỏ tươi, hại loài trùng kiến”.

 

- Các Tỳ Kheo nghe, bạch Phật, Phật quở trách, rồi bảo các Tỳ Kheo từ nay trở đi, cho ba tháng kiết hạ an cư, bạch với người  sở y, nói rằng: “Tôi ở chốn này kiết hạ an cư”.

 

Trong luật Tăng Kỳ nói: Tỳ Kheo không an cư phạm tội “Đọa”. Nếu đi đường chưa đến trụ xứ (chỗ chùa nào định ở an cư) ngày an cư đến (16-04) liền ở bên đường, hoặc gặp xe, nương xe, nên thọ phép an cư (quỳ bạch an cư chùa nào) đến minh tướng (ra gần sáng rõ) đến trụ xứ.

 

Trong luật Tứ Phận Ni nói: “Ni chẳng tiền an cư, pham tội “Đột kiết la”, tội này cho sám hối. Chẳng hậu an cư, phạm tội “Đọa”. Tỳ Kheo Tăng bị phạm tội “Đột kiết la”.

 

Không phạm là vì có bận việc Tam Bảo, hoặc trông nom bịnh mọi duyên, nếu không kịp hậu an cư thì không phạm.

 

Ấn Độ mỗi năm 3 mùa: Xuân, hạ, đông.

Xuân từ 16 tháng 12, Hạ từ 16 tháng 4, Đông từ 16 tháng 8.

 

Ba tháng an cư thiện tín cung cấp đồ dùng cả một năm.

SẮP ĐẾN NGÀY AN CƯ

---

 

            Theo lệ thường các Tô đình, tối ngày 13-4  Đại chúng cầu xin an cư.

            Phép tác bạch. – Chúng đã xếp hàng, vị Thượng tọa ở giữa đại bạch:

 

            A Di Đà Phật.

            Bạch Hòa thượng, chúng con có duyên sự đầu thành đảnh lễ xin tác bạch:

 

            Đồng lễ một lễ, đứng dậy rồi quỳ xuống.

            Bạch: A Di Đà Phật.    (2 lần).

            Bạch Hòa thượng nay đến ngày an cư, xin Hòa thượng bố thí về sự an cư pháp như thế nào, chúng con được trượng thừa công đức.

                                                                                                             

            Đây là pháp cầu thỉnh (thuận cho).

            - Hòa thượng; “À phải” ! Phàm là đệ tử của Phật; mỗi năm đến mùa hạ cần phải họp Tăng an cư, y theo như lời Phật dạy, cùng nhau sách tấn sự tu hành, nếu không an cư, phải bị tội. Chư Tăng đã không quên, thì cứ theo lệ thường như pháp mà làm.

 

            (Hòa thượng bảo rồi).

            - Thượng tọa: A Di Đà Phật, về sự an cư, trên Hòa thượng đã hoan hỷ cho rồi, chúng con xin tác lễ cúng dường.                                                                                                           (Lễ 3 lễ ra).

 

            Thượng tọa bạch giữa chúng ngày mai (14) sau khi tiểu thực xong, chư Tăng bao sái tôn tượng, phất thức các nơi, phòng xá phá tu v.v… cho sạch sẽ.

           

            Ngày rằm, sau khi chứng trai xong, vị Hòa thượng bạch lên cụ Hòa thượng và họp đường đại chúng rằng:

            “Bạch…  hôm nay các vị hạ tọa đã phất thức phá tu phòng xá rồi, xin chiều hôm nay về khoảng 3 giờ, chúng con xin kích hiệu thỉnh Hòa thượng, Thượng tọa, chư Tăng lên chùa làm phép hành trù, (chia thẻ). Xin Hòa thượng, Thượng tọa chư Tăng chứng minh cho.

 

            Tối rằm, họp chúng cử chức sự để làm việc và biên bản danh sách theo thứ lớp tuổi hạ, sắp chỗ ngồi. Niên lạp ít hơn, hay thụ giới sau một giây phút cũng ngồi ở dưới.

            Sau khi Hòa thượng cử chức sự xong, các chức sự ra lễ tạ ngay, vì đã lãnh trách nhiệm trong ba tháng.

            Phép tác bạch như thường lệ.

 

            Nam mô A Di Đà Phật.

            Bạch trên Thượng tọa, chư Tăng, hôm nay sắp đến ngày an cư, Thượng tọa, chư Tăng cử chức sự để trông coi sự an cư tu tập trong ba tháng. Trên Hòa thượng, chư Tăng đã đặt cho chúng con mỗi nhiệm vụ, chúng con rất hoan hỷ lãnh thọ, nguyện trong ba tháng tận tụy với trách vụ. Xin Thượng tọa, chư Tăng chứng minh…

 

            (Phép lễ tạ tùy liệu mà bạch).

            Sáng ngày 16, khi tiểu thực xong, chúng đều đắp y sắp hàng trước Tổ đường. Thượng tọa hay Duy Na đại bạch:

            A Di Đà Phật. Bạch Hòa thượng, nay là ngày an cư, ngày trước có cầu trên Hòa thượng đã hứa khả cho rồi, nay chúng con xin kêu lên Hòa thượng từ bi tác pháp cho chúng con an cư.

            - Hòa thượng bảo: Về việc lễ nghi Tăng gia thường sự, nay chúng tề tựu đông đủ, để cùng nhau sách tấn sự tu học. Vậy xin thỉnh chư Tăng lên chùa tác pháp.                (Bạch lễ như trước).

 

            Đúng 8 giờ rưỡi, theo thường lệ đánh kiền, thỉnh Tăng lên chùa, niệm hương cầu Phật Bồ tát gia bị. Xướng : Pháp vương vô thượng v.v… lễ ba lễ. Lư hương sạ nhiệt v.v… Đại bi v.v… quỳ lễ sám:

            Đệ tử chúng đẳng chí tâm sám hối.

            - Vãng tích sở tạo chư ác nghiệp v.v…

            - Nam mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma ha tát.

            - Sám hối dĩ, quy mạng lễ A Di Đà Phật cập nhứt thiết Tam Bảo.                       (3 lần, 3 lễ).

 

            (Tản ra hai bên ngồi).

            Trên hai Thượng tọa đối thú an cư xong, chia ra hai nơi (Mỗi Thượng tọa một ghế nhỏ riêng), để chịu chúng lễ bạch cho chóng.

 

PHÉP THƯỢNG TỌA

ĐỐI THÚ AN CƯ

---

 

            Hai vị Thượng tọa đối thú bạch an cư trước, sau mới thọ người an cư. Hai vị đứng ngang nhau đồng thời lạy xuống một lạy, rồi quỳ đối thú chấp tay bạch rằng: (vị lớn bạch trước).

 

            “Đại đức nhứt tâm niệm, Ngã Tỳ Kheo… kim y (tên chùa nào an cư) Tăng già lam, tiền tam nguyệt hạ an cư”.                                                                                                                   (3 lần).

 

            Vị Thượng tọa bị đối đáp: “Thiện”. Vị tác bạch nói: “Nhĩ”.                                             (1 lạy).

            Vị Thượng tọa bị đối, tác bạch cũng thế… (như trên). Nếu người bị đối là đệ tử, chỉ thụ lễ có khác (Phải lễ lại thầy, rồi quỳ chịu lễ, không ngồi, thầy chịu lễ thì ngồi). Phép đáp cũng thế (Thiện – Nhĩ).

            (Vì hai bên đều rõ luật pháp chẳng y người, nên không có lời hỏi và khuyên răn như đại chúng).

            Khi hai Thượng tọa đối thú tác bạch xong, chia ra tòa hai bên, để cho đại chúng lần lượt tác bạch.

          Hai Thượng tọa ngồi yên, theo thứ lớp tuổi hạ nhiều hơn, từng vị một bạch trước, Sa Di lần lượt bạch sau.

         

          “Đại đức nhứt tâm niệm, Ngã Tỳ Kheo… kim y (tên chùa nào an cư) Tăng già lam, tiền tam nguyệt hạ an cư”.                                                                                                                   (3 lần).

 

          (Nếu người bạch cũng là Thượng tọa, thì Thượng tọa bị đối nói rằng: “Thiện”. Thượng tọa tác bạch nói rằng: “Nhĩ”.

            Nếu là bậc Thượng tọa, Hạ tọa trở xuống thì cũng bạch như trên, nhưng có lời hỏi và khuyên răn theo phép đại chúng an cư).

 

PHÉP ĐẠI CHÚNG AN CƯ

---

 

            Trước lễ một lễ, quỳ bạch:

           

            “Đại đức nhứt tâm niệm, Ngã Tỳ Kheo… kim y (tên chùa nào an cư) Tăng già lam, tiền tam nguyệt hạ an cư”.                                                                                                                   (3 lần).

 

            - Thượng tọa bảo: Tri mạc phóng dật.

            - Người tác bạch đáp: Thụ trì.

            Hỏi : Y thùy trì luật giả?

            Đáp : Y (pháp danh) Luật sư*

            Hỏi  :  Hữu nghi đương vãng vấn.

            Đáp :   Nhĩ (vâng). (lạy 1 lạy lui ra ngồi một bên).

           

            Còn tứ chúng thì đối là Tỳ Kheo Ni, Thức Xoa Ma na Ni, Sa Di, Sa Di Ni, và theo danh hiệu mình mà xướng, còn văn bạch đều giống nhau. Bực có trí huệ, đã 5 tuổi hạ thì không còn y sư. Nếu 10 hạ mà còn học, phải y sư thì phải theo câu vấn đáp thư hai trên.

 

            Từng người bạch xong, tụng;

            - Bát nhã tâm kinh…

            - An cư công đức thù thắng hạnh v.v…

            - Tam tự quy y…

            Ra lễ Tổ.

           

            Sáng ngày 17, sau khi tiểu thực xong, trên các Thượng tọa ra đảnh lễ Hòa thượng. Như phép tác bạch trước:

 

            Bạch Hòa thượng, trong tam nguyệt hạ an cư, chúng con rất hâm mộ sự học, có lòng khát ngưỡng mong Hòa thượng mở lượng từ bi, thí pháp nhủ cho chúng con được trượng thừa công đức.

           

            Hòa thượng đáp:  Theo phép có cầu mới có nói; nếu không cầu mà nói, cả hai đều có lỗi. Như chư Tăng đã y pháp y luật, y Phật sở giáo hết lòng cần cầu, tôi xin hoan hỷ.

 

            Hòa thượng bảo xong:

            A Di Đà Phật, Hòa Thượng đã từ bi bố thí cho rồi, chúng con xin đầu thành đảnh lễ cúng dường.                                                                                                                                        (3 lễ).

PHÉP HẬU AN CƯ

---

 

            Trong luật Tứ Phận nói: Tổ Xá Lợi Phất, Tổ Mục Kiền Liên muốn cùng Thế Tôn an cư, mà ngày 17-04 mới đến . Phật nói rằng: Cho hậu an cư, từ ngày 17-04 đến ngày 16-05. Nếu có người vì an cư mà đến, thì nên hậu an cư. Trong lời tác bạch, chỉh đổi chữ “Tiền” làm chữ “Hậu” còn lời tác bạch đều giống như vấn tiền an cư..

           

            Người hậu an cư nên cùng người tiền an cư tự tứ, được nhận của cúng (Tăng chia vật cũng được phần), nhưng cứ tu chờ đủ 90 ngày mới ra ngoài giới.

PHÉP TÂM NIỆM AN CƯ

---

 

            Khi bấy giờ các Thầy Tỳ Kheo ở trụ xứ không người bị y, không biết chốn nào mà bạch. Phật bảo: Nếu không có người bị y, thì cho tâm niệm an cư. Đến trước lễ Tam Bảo, quỳ xuống chấp tay tâm nghĩ miệng nói:

 

            Ngã Tỳ Kheo… kim y (chùa là thế)

            Tăng già lam, tiền tam nguyệt hạ an cư (3 lần).

Làm như thế liền thành an cư. (Phép này Ni bất cộng).

PHÉP THỤ NHỰT RA NGOÀI GIỚI

---

 

            Trong bộ Căn bản Bách nhứt Yết ma nói: “Tổ Ô Ba Ly bạch Phật: Nếu có việc cần, xin một ngày một đêm ra ngoài giới được không?

            - Phật nói: “Được”.

            Như thế có việc cần yếu có thể xin hai đêm cho đến 40 đêm ra ngoài giới được không?

            - Phật nói: “Được”. Nhưng tùy theo có việc đến, so các lượng duyên nhiều ít mà thụ nhựt.

             Lại nói: Được ra ngoài giới quá 40 đêm không?

            -Phật bảo: “Trong một hạ, nên ở trong giới nhiều ngày, ở ngoài giới ít hơn.

            Hỏi:Xin ra ngoài giới tử một đêm, hai đêm, cho đến 7 đêm, đối với ai mà tác pháp.

-Phật bảo:Từ một ngày cho đến 7 ngày nên đối với một vị Thượng tọa mà tác pháp. Nếu quá 7 ngày trở đi,  cho đến 40 ngày, đều phải bạch Tăng theo pháp Yết ma và tác pháp thụ nhật.

PHÉP THỤ BẢY NGÀY RA NGOÀI GIỚI

---

 

            Trong luật Tứ Phận: Tỳ Kheo an cư, có việc Phật, Pháp, Tăng, cha mẹ, đàn việt thỉnh, hoặc mời đi trao giới mọi duyên, hoặc đi xem bịnh tim thuốc, đi hỏi chỗ nghi ngờ, đi cầu thỉnh pháp, các việc như thế không thể ngay trong ngày trở về được. Phật cho thụ 7 ngày đi, đến ngày thứ 7 nên trở về.

            Trong luật Thập Tụng: Nếu không Tỳ Kheo, nên theo tứ chúng khác mà thụ nhựt.

            Người xin thụ nhựt, sau khi tiểu thực xong, ra bạch giữa chúng:

           

            Nam mô A Di Đà Phật, Bạch trên Thượng tọa, Đại đức Tăng, chúng con có duyên sự đầu thành đảnh lễ xin tác bạch.                                                                                    

 (Lễ 1 lễ quỳ bạch):

Nam mô A Di Đà Phật, Bạch trên Thượng tọa, Đại đức Tăng, chúng con (tên là thế) có duyên Tam bảo sự (…) xin ra ngoài giới 7 hôm, công việc xong trở về nội giới cùng chúng an cư tu tập, xin trên Thượng tọa, chư Đại đức Tăng từ bi tác chứng cho.

 

Thượng tọa bảo:  Trong lúc an cư kiết túc, nhưng Thầy có duyên sự sự về việc Tam bảo, xin ra ngoài giới 7 hôm, công việc xong, mau trở về nội giới cùng chúng tu tập. Vậy thầy lễ Tổ chứng minh cho.

 

Người xin bạch: A Di Đà Phật, trên Thượng tọa, chư Đại đức Tăng đã từ bi chứng minh cho rồi, chúng con xin đầu thành đảnh lễ cúng dường.                                                          (Lễ 3 lễ).

 

Sau  khi bạch giữa chúng xong, thỉnh một vị Thượng tọa lên ngồi bên bàn Tổ, hay là bên bàn Phật. Vị xin thụ nhựt lễ một lễ, quỳ bạch:

 

“Đại đức nhứt tâm niệm, ngã Tỳ Kheo… kim thụ thất nhựt pháp, xuất giới ngoại, vị… sự cố, hoàn lai thử trung an cư, bạch Đại đức linh tri”.                                                              (3 lần).

 

Vị Đại đức đáp: “Thiện”.

Vị xin thụ nhựt đáp: “Nhĩ”.                                                                                         (Lễ 1 lễ ra).   

 

 

            Tuy xin ra ngoài giới 7 ngày, nhưng 3, 4 ngày việc xong rồi thì phải trở về, không nên ở lại đợi đủ số ngày mới trở về.

            Nếu có nạn duyên, giữa đường bị đứt, đường thủy bị ngăn, quá hạn. Phật nói rằng: không mất tuổi hạ.

            Khi trở về, hợp thời trước giờ tiểu thực hay đại thực, ra giữa bạch:

A Di Đà Phật, bạch Thượng tọa chư Tăng, vừa rồi con có duyên sự… xin ra ngoài giới, hôm nay công việc đã xong, con trở về nội giới cùng chúng tu học, xin Thượng tọa, chư Tăng chứng minh cho.

Thượng tọa đáp: v.v…

PHÉP THỌ NGÀY CÒN DƯ RA NGOÀI GIỚI

---

 

            Trong luật Thập Tụng nói: Nếu Tỳ Kheo thọ 7 ngày chưa hết, việc chưa xong mà trở về. Phật nói: Cho thọ phép tàn dạ (ngày còn dư lại). Thỉnh một vị Tỳ Kheo lên ngồi một bên dưới bàn thờ Tổ, trước lễ một lễ quỳ bạch: Đại đức nhứt tâm niệm, ngã Tỳ Kheo… thọ thất dạ pháp, dư hữu (bao nhiêu) dạ tại, thọ bỉ xuất.                                                                                             (Bạch 1 lần).

 

            Tỳ Kheo chịu lễ đáp: “Thiện”. Người thụ nhựt nói: “Nhĩ”.                                 (Lễ 1 lễ, lui ra).


 

*         Hoặc y đệ ngũ luật sư:

Có năm bực luật sư:

1.        Tụng giới tự cho đến 30 sự (xả đọa)

2.        Tụng giới tự cho đến 90 sự  (đọa)

3.        Rộng tụng Tỳ Ni giới một phần.

4.        Rộng tụng hai phần (Tăng, Ni) Tỳ Ni giới.

5.        Rộng tụng toàn phần Tỳ Ni giới (thông suốt luật tạng).

Mùa xuân mùa đông, y chỉ 4 bực luật sư trên: mùa hạ an cư, thì y chỉ đệ ngũ luật sư.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/08/2014(Xem: 18962)
Chúng con xin trân trọng giới thiệu bộ sách ĐỐ VUI PHẬT PHÁP đến cùng chư vị với tâm nguyện góp một phần nhỏ vào việc chia sẻ những lời Phật dạy cho lớp trẻ hôm nay. Cuốn sách được hình thành từ năm 2001, khi chúng con thử nghiệm tổ chức những lớp học Phật pháp cho các em thiếu nhi ở những vùng sâu, vùng xa của các tỉnh Đồng Tháp, Vĩnh Long, Bến Tre, Long An... Khi ấy, vì thiếu thốn giáo trình dành cho thiếu nhi, chúng con đành mạo muội tự biên soạn để có cơ sở giảng dạy. Tài liệu tham khảo lấy từ nhiều nguồn, nhưng chủ yếu dựa vào bộ Phật học phổ thông của Hòa thượng Thích Thiện Hoa. Vừa làm, vừa áp dụng vào thực tế, chúng con đã rút kinh nghiệm chỉnh sửa dần dần. Đến nay, đã thử nghiệm giảng dạy cho hàng nghìn em, nhận thấy tương đối phù hợp và đạt hiệu quả tốt nên chúng con mới dám xuất bản một cách chính thức, mong sẽ hỗ trợ cho những ai có nhu cầu học Phật có thêm một tài liệu để tham khảo.
17/08/2014(Xem: 12520)
Văn hóa ẩm thực có từ lâu đời. Việc ăn chay được Phật giáo truyền bá và phát triển từ tinh thần từ bi, hình thành một số nét văn hóa trong việc ăn chay với nhiều nét đặc sắc, trong đó Văn hóa Thiền - Trà từ sự kết hợp giữa ý nghĩa của việc thưởng trà và những điều tinh yếu của Đạo Phật. Trà và Thiền có nhiều nét tương đồng nên sự kết hợp của chúng đã hình thành một hình thức sinh hoạt tao nhã trong ẩm thực Phật giáo: Những tách trà Thiền. Đó cũng là lý do ra đời của tập sáchThiền trà và Ăn chay.
17/08/2014(Xem: 12835)
Rất nhiều trong số những khái niệm và nhận thức của chúng ta được xây dựng dựa trên những định kiến và quy ước. Những gì được cho là tốt, xấu, hay, dở... ở một nơi này lại rất có thể sẽ không được đánh giá tương tự như thế ở một nơi khác. Đơn giản chỉ là vì những định kiến và quy ước khác nhau. Những phong bao đỏ lì xì trong dịp Tết chẳng hạn, rất quen thuộc ở một số nước Á Đông, nhưng lại có thể là xa lạ đối với đa số các nước Âu Mỹ. Ngược lại, hai người bạn lâu ngày gặp nhau ôm hôn trên đường phố để tỏ tình thân ái là việc rất bình thường trong xã hội Âu Mỹ, nhưng có thể mọi người đều sẽ lấy làm lạ nếu điều đó lại xảy ra trên một đường phố ở Á Đông...
17/08/2014(Xem: 16665)
Trong khoảng vài thập niên vừa qua, sự bùng nổ các phương tiện thông tin trên toàn thế giới, và nhất là trên khắp các thành phố lớn ở Việt Nam ta, đã mang đến những thuận lợi lớn lao thúc đẩy sự tiến bộ vượt bực trong hầu hết các lãnh vực khoa học, kỹ thuật, công nghệ, giáo dục... Nhưng bên cạnh đó, môi trường phát triển mới cũng đặt ra không ít những khó khăn thách thức, những ưu tư lo ngại về sự phát triển tinh thần của thế hệ trẻ trong tương lai.
17/08/2014(Xem: 12882)
Một buổi sáng thức dậy băn khoăn nghe tiếng chim rất lạ. Mỗi một nụ cười, ánh mắt, bước chân đi cũng dường như thay đổi. Lòng dạt dào những cảm xúc khó tả, và nghĩ đến điều gì cũng thấy như mình đã hiểu biết rất nhiều hơn. Ô hay, mình đã lớn!
17/08/2014(Xem: 28688)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này. Vì thế, thiền không phải là một lãnh vực siêu nhiên vượt ngoài phạm trù ý thức thông thường như nhiều người lầm tưởng, mà trái lại chính là sự soi rọi, chiếu sáng những trạng thái tâm thức hết sức bình thường mà mỗi người chúng ta đều đã và đang trải qua trong cuộc sống thường ngày.
17/08/2014(Xem: 27389)
Thiền đã trở thành một trong những tinh hoa của nhân loại. Ngày nay, từ Đông sang Tây người ta không còn xa lạ gì với thiền và những công năng kỳ diệu của nó. Nhiều trung tâm thực hành và hướng dẫn thực hành thiền quán đã được hình thành trên khắp châu Âu. Ở các nước Á Đông, với một truyền thống sâu xa hơn, thiền đã bắt rễ vào từng tự viện lớn cũng như nhỏ, và người ta gần như có thể tìm đến với thiền không mấy khó khăn.
17/08/2014(Xem: 13924)
Thời gian làm việc của chúng ta bao giờ cũng chiếm một tỷ lệ khá lớn trong cuộc sống hằng ngày, cho dù là ta đang giữ bất cứ vị trí nào trong xã hội. Vì thế, qua công việc chúng ta không chỉ nhận được những giá trị vật chất bằng vào sức lao động của bản thân, mà còn có cả những giá trị tinh thần trong cuộc sống...
15/08/2014(Xem: 10797)
Bộ Tỳ Ni Nhựt Dụng Thiết Yếu nầy, do Hòa Thượng Kiến Lão dựa theo Tâm Đại Từ Bi của Đức Phật, Ngài rút ra từ phẩm Tịnh Hạnh trong kinh HOA NGHIÊM, trong MẬT BỘ và trong các Kinh Luật, viết thành 53 bài kệ với 38 câu thần chú, rồi sắp xếp theo hệ thống, hợp thành một quyển. Lời văn dón gọn dễ nhớ, rất tiện cho kẻ sơ cơ nhập Đạo, làm khuôn thước cho thân tâm. Trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi của người tu, không vượt ra ngoài giới luật, khiến cho hành giả suốt ngày đêm 24 giờ, tất cả đều nằm trong khuôn khổ thánh thiện. Đây chính là thềm thang tiến tu Đạo nghiệp, là cửa ngỏ đi vào cảnh giới Phật Đà. Người tu hành quan trọng nhất là Điều Phục Vọng Tâm và An Trụ Chơn Tâm, vì tâm chính là chủ của thân, thân chỉ là dụng của tâm. Do đo,ù muốn An Trụ Chơn Tâm, muốn hiển lộ Tánh Giác thì phải thân đâu tâm đó, cần phải làm gì biết nấy, để khỏi chạy theo vọng niệm.
22/07/2014(Xem: 32619)
Ngôi tu viện Phật giáo vùng Tây Bắc của tiểu bang Victoria được Thượng tọa Thích Tâm Phương khai sơn từ năm 1990. Ban đầu tu viện tọa lạc ở vùng Broadmeadows. Đến năm 1995, tu viện vận động mua lại ngôi trường tiểu học Fawkner cũ có diện tích 8.000 m2 và xây dựng thành ngôi phạm vũ trang nghiêm mang tên Bồ tát Thích Quảng Đức từ năm 1997 đến năm 2003. Công trình xây dựng do kiến trúc sư Nguyễn Kiển Thành thiết kế, kiến lập theo kiểu chữ “Công” mang dáng dấp kiến trúc cổ kính Á Đông. Đại lễ khánh thành được tu viện tổ chức trọng thể vào các ngày 10, 11 và 12-10-2003. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm thờ tôn tượng đồng đức Phật Thích Ca thiền định. Tượng cao 2,50m, nặng khoảng 1,5 tấn. Phía trước và hai bên, tu viện đặt thờ nhiều tượng Phật, Bồ tát, Hộ Pháp Già Lam. Đến năm 2008, tu viện xây Tăng xá và Bảo tháp Tứ Ân. Bảo tháp 4 tầng, cao 14m, rộng 5m, trên nóc tôn trí tượng đức Phật A Di Đà cao 1,2m. Trong bảo tháp tôn thờ Xá Lợi Phật, tượng chư Phật, Bồ tát và linh cốt của Phật tử q
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]