Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Về Một Bức Tranh Của Phật Thích Ca (PDF)

07/01/201503:35(Xem: 15391)
Về Một Bức Tranh Của Phật Thích Ca (PDF)
buctranhphatthichca3
Lời Ban Biên Tập:
Để trả lời nghi vấn của một số độc gỉa TVHS về một bức tranh đen trắng vẽ Đức Phật Thích Ca khi Ngài còn tại thế (khoảng năm 41 tuổi) do một đệ tử của Ngài là Phú Lâu Na (Purna) vẽ, chúng tôi đã liên lạc với tác giả quyển sách Mùi Hương Trầm , GSTS. Nguyễn Tường Bách, người đã đề cập đến bức tranh vẽ này trong quyển sách của ông. Tác gỉa đã gửi cho chúng tôi bài đề ngày 16-1-2003 trả lời ông Vương Như Dương Chuyết Lão, người cũng có thắc mắc tương tự. BBT/TVHS xin cảm ơn tác gỉa quyển sách Mùi Hương Trầm và bài viết này. Riêng về bức tranh vẽ mầu được một Phật tử Trung Hoa làm lại, đưa mầu vào và ghi thêm chữ Hán (dòng chữ Hán bên trên là Thích Ca Mâu Ni Phật và hai hàng chữ Hán hai bên là bài kệ lấy từ kinh Kim Cang: "Nhất thiết hữu vi pháp / Như mộng, huyễn, bào, ảnh / Như lộ diệc như điện / Ưng tác như thị quán." Mời quý độc giả xem tiếp bài viết của GSTS. Nguyễn Tường Bách: Về Một Bức Tranh Của Phật Thích Ca



VỀ MỘT BỨC TRANH CỦA PHẬT THÍCH CA
Nguyễn Tường Bách

Trước hết, người viết bài này xin trân trọng cám ơn những nhận xét đầy khích lệ của tác giả Vương Như Dương Chuyết Lão về “Mùi Hương Trầm“. Những phê bình tốt đẹp đó đem lại thêm cho người viết lòng tri ân về những nhân duyên sâu kín đã tạo tác nên tác phẩm này, trong đó người viết chỉ làm một nhiệm vụ duy nhất là viết lại những gì mình từng thấy, từng nghe, từng đọc.

Trong bài viết, tác giả Vương Như Dương Chuyết Lão nêu nghi vấn về một tấm hình của đức Thích-ca trích đăng trong “Mùi Hương Trầm“. Tác giả nêu câu hỏi, phải chăng bức hình này đích thực là từ thời lúc Phật còn tại thế truyền lại, do đệ tử của Ngài là Phú-lâu-na (Purna) vẽ lúc Ngài khoảng 41 tuổi. Nghi vấn này cho ta thấy cặp mắt sắc bén của tác giả Vương Như Dương Chuyết Lão, nó đòi hỏi một câu trả lời thành tâm và nghiêm túc.


buctranhphatthichca3

Phật Thích-ca lúc 41 tuổi


Trước hết, bức hình này gây nhiều sự kinh ngạc và thú vị cho người xem, trong đó có tác giả của “Mùi Hương Trầm”. Tất cả những hình tượng khác của Phật Thích-ca đều có tính chất tượng trưng. Chỉ duy nhất bức hình trên đây trình bày Ngài như một con người bằng xương bằng thịt. Bức hình này có thật không ?

Về bức hình này cũng như về nhiều chi tiết khác trong “Mùi Hương Trầm“, tác giả phải dựa vào các nguồn thông tin khác, nhất là kinh sách, tư liệu của các tác giả khác, chứ không được thấy tận mắt. Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982). Thiền sư Deshimaru đến Pháp năm 1967 và xuất bản tác phẩm đầu tay nói trên vào năm 1969. Tác phẩm này cũng đã được Ngô Thành Nhân/Trần Đình Cáo dịch ra Việt ngữ dưới tên “Chân Thiền“ và xuất bản năm 1992. Tài liệu thứ hai là của thiền sư Tinh Vân (Hsing Yun). Thiền sư Tinh Vân, sinh năm 1927 tại Trung Quốc, là tổ thứ 48 của dòng Lâm Tế. Thiền sư Tinh Vân là tác giả của gần 30 tác phẩm, sáng lập hội Buddha's Light International Association (BLIA) và hiện nay đi du hóa trên toàn thế giới.

Trong các tác phẩm của Tinh Vân ta tìm thấy một tài liệu mang tên Seeing the Buddha[1][1]. Trong tác phẩm này Tinh Vân luận giải rất hay về các loại “thân“ của Phật, từ tranh tượng thông thường đến các dạng “hiện tướng“ khác nhau của Pháp thân Phật. Đặc biệt, dựa trên kinh A-hàm, Tinh Vân cho hay, bức tượng đầu tiên của Phật là do nhà vua Udayana của nước Kausambi cho tôn tạo lúc Ngài còn tại thế. Truyền thuyết kể lại, lúc Phật đến cung trời Tam thập tam để giảng pháp cho mẹ, nhà vua cho đẽo bức tượng bằng gỗ chiên đàn để tưởng nhớ đến Phật. Sau ba tháng, lúc Phật trở lại thế gian, bức tượng trở nên sống động và đến “chào“ Ngài. Phật mỉm cười nhìn tượng và nói: “Ba tháng qua chắc ngươi mệt lắm nhỉ!“. Sau nhà vua Udayana, vẫn theo Tinh Vân trích kinh A-hàm, nhà vua Ba-tư-nặc của nước Kiều-tát-la và trưởng giả Cấp Cô Độc cũng cho đúc tượng của Phật.

Cũng trong tác phẩm này, Tinh Vân viết thêm: “Trong những năm qua, chúng ta được nghe có một bức tranh của Phật còn xưa hơn cả bức tượng đầu tiên. Viện Bảo tàng Anh quốc tại Luân Đôn có một sưu tập gồm nhiều bức tranh của Phật. Trong những bức tranh đó có một bức mà viện bảo tàng tôn quí nhất. Đó là một bức tranh vẽ Phật lúc Ngài 41 tuổi. Bức tranh do Phú-lâu-na vẽ, một vị đệ tử của Phật và màu sắc (của bức tranh) ngày nay vẫn còn sinh động. Hình chụp của bức tranh này hiện nay được lưu hành tại Nhật và Đài Loan“.

Như thế, thiền sư Tinh Vân cũng chỉ nghe nói đến bức tranh này chứ chưa được thấy tận mắt. Người viết bài này cũng chưa có dịp đến viện bảo tàng British Museum để tìm kiếm bức tranh nọ, nhưng đã lục lọi trên Internet, vào trong các bộ sưu tập tranh của viện bảo tàng nhưng cũng không thấy bức tranh nọ được trưng bày trong mạng. Vì thế lai lịch bức tranh, liệu nó có thật hay không, vẫn còn là một nghi vấn. Người ta chỉ biết chính xác là rất nhiều cổ vật của Ấn Độ được mang về Anh vì Ấn Độ một thời là thuộc địa của Anh, và không phải cổ vật nào cũng được trình bày cho công chúng xem. Do đó, nghi vấn này không biết bao giờ mới giải đáp chính xác được. Độc giả nếu có ai đã từng xem được bức tranh hay có thông tin gì về nó, xin thông báo cho chúng ta được biết chung.

Trong bài này, ta hãy thử tìm hiểu thêm các nguồn tài liệu khác để có một cái nhìn khách quan về niên đại của tranh tượng về Đức Phật. Một nguồn thông tin cho hay, tượng Phật cổ nhất được tìm thấy là tại Tích Lan, với niên đại của thế kỷ thứ ba trước công nguyên. Theo những tài liệu khác, tại Gandhara (Tây bắc Ấn Độ, ngày nay thuộc về Afghanistan), lúc vùng này bị Hy Lạp chiếm đóng trong khoảng thế kỷ thứ nhất trước công nguyên đến thế kỷ thứ sáu sau công nguyên, con người bắt đầu trình bày Đức Phật với nhân trạng, theo truyền thống Hy Lạp. Theo nhà Phật học W.Schumann[2][2], hình ảnh đức Phật bắt đầu được tôn tạo khoảng 450 năm sau ngày Ngài diệt độ. Theo L.M.Joshi thì bức tượng Phật cổ nhất được tìm thấy tại Mathura (Bắc Aán) với niên đại của thế kỷ thứ nhất sau công nguyên. Nói chung các nhà nghiên cứu khoa học đều thừa nhận là không thể biết đích xác và cũng không hoàn toàn thống nhất về niên đại của tranh tượng đầu tiên của Đức Phật.

Ngoài vấn đề niên đại, các nhà nghiên cứu phương Tây có những lời giải thích hữu lý về vai trò của tranh tượng. Theo họ, ngày xưa đối tượng để thờ cúng không phải là tranh tượng mà là xá lợi và các tháp chứa đựng xá lợi. Theo thời gian, quan niệm thờ cúng xá lợi và bảo tháp hẳn không thể tồn tại được lâu, nhất là với sự phát triển rộng khắp của đạo Phật. Ngày nay người ta phát hiện một văn bản du nhập vào Trung quốc năm 148 sau công nguyên, trên đó có ghi: “...đệ tử đích thực của Phật cần đảnh lễ tranh tượng của Ngài mỗi sáng mỗi tối và thường xuyên đốt đèn để tỏ lòng tôn kính Ngài...“[3][3].

Với những lẽ trên, ta có thể chắc chắn tranh tượng đức Phật đã hình thành chậm nhất từ đầu công nguyên. Đó là điều khoa học có thể chứng minh. Còn các bức tượng bằng gỗ và bằng vàng mà Tinh Vân nói đến, bức tranh vẽ đức Phật của Phú-lâu-na mà cả hai thiền sư khả kính Taisen Deshimaru lẫn Tinh Vân nhắc nhở thì sao? Nói một cách nghiêm túc, các tác phẩm nghệ thuật đó chưa được chính thức khẳng định và thừa nhận. Liệu một ngày nào đó, bảo tàng viện của Luân-đôn sẽ trình bày bức tranh và Phật tử có thể chiêm bái bảo vật vô giá nói trên, điều đó cần một nhân duyên lớn.

Thế nhưng, trong lúc chờ đợi, có lẽ ta nên nghĩ như Tinh Vân trong tác phẩm Seeing the Buddha. Theo đó, Thân Phật chỉ là Ứng thân của Ngài, bức tranh (nếu có) lại càng là một phần của Ứng thân. Còn Pháp thân của Ngài là đang ở khắp nơi và hiện hữu trong từng khoảnh khắc.

NTB (16.1.03)



pdf
Về Một Bức Tranh Của Phật Thích Ca (PDF)



[1]
[1] http://www.blia.org/english/publications/booklet/pages/21.htm

[2][2] W.Schumann, Buddhistische Bilderwelt, Diederichs Verlag 1986

[3][3] Theo L.M.Joshi, Buddhistische Kunst und Architektur, trích trong Die Welt des Buddhismus, Orbis Verlag 2002

Bài / Sách liên quan đến chủ đề:
MÙI HƯƠNG TRẦM- Nguyễn Tường Bách
Ý kiến bạn đọc
31/03/201906:58
Khách
Hình Phật Thích Ca gì ma trông giống như hippy, tỉa râu mép, để tóc dài !!
Ông Nguyễn Tuờng Bách là người có ăn học hiểu biết, nhưng ăn không ngồi rồi, không biết cách và không lo chuyện tu tập, chỉ thích viết lách nói chuyện bá xàm, chỉ thích đề cập những chuyện nhảm nhí như vậy, vừa làm mất thì giờ của mình, vừa làm phiền bao nhiêu người khác mất công đọc ông ta.
Trong một kinh Pali, Phú Lâu Na (Punna) được Đức Phật giảng cho một pháp ngắn gọn rồi đi đến một vùng xa xôi, dân tình hung bạo để tu tập. Sau đó Punna đã chứng tam minh và thành lập/ giáo hóa một tăng đoàn và một ni đoàn, mỗi giáo đoàn 500 người, truớc khi Ngài nhập niết bàn.
05/07/201602:26
Khách
BU'́C TRANH NÀY LÀ BU'́C TRANH NGỤY TẠO , KHÔNG PHẢI LÀ TRANH CỦA PHẬT . VÌ LÝ DO : KHI PHẬT ĐÃ THÀNH LẬP TĂNG ĐOÀN THÌ PHẬT ĐÃ RA LUẤT ĐẦU TÓC CẠO SẠCH, BA Y, MỘT BÁT ; KHI PURNA PHÚ LÂU NA GIA NHẬP TĂNG ĐOÀN VÀ NẾU VẼ HÌNH PHẬT NĂM NGÀI 41 TUỔI THÌ NHẤT ĐỊNH NGÀI KHÔNG ĐỂ TÓC VÀ ĐỂ RÂU , LÝ DO THẦY PHẢI LÀ GU'O'NG GI'U'̃ LUẬT VÀ GIO'́I HO'N TRÒ THÌ MO'́I LÀ THẦY . HAI NU'̃A TAI CỦA PHẬT LO'́N VÀ DÀI , TRONG HÌNH TAI RẤT NHỎ BẺ ; THU'́ BA PHẬT LÀ DÒNG GIỐNG MẮT HAI MÍ, TRONG HÌNH LÀ DÒNG GIỐNG MẮT MỘT MÍ TRÔNG GIỐNG NHU' DÂN CHINA CHU'́ KHÔNG GIỐNG ẤN ĐỘ .
THU'́ HAI NẾU NGÀI PURNA VẼ HÌNH PHẬT THÌ NHẤT ĐỊNH CŨNG CÓ VẼ VÀI HÌNH CÁC VỊ THÁNH CHÚNG KHÁC , CHU'́ KHÔNG CÓ LÝ CHỈ VẼ ĐỘC NHẤT CHỈ MÔT HÌNH PHẬT LÚC 41 TUỔI RỒI NGU'NG .
THU'́ BA TRONG TẤT CẢ PHÂT KINH CŨNG KHÔNG THẤY MỘT KINH NÀO NÓI NGÀI PURNA VẼ HÌNH PHẬT.
THU'́ BỐN , HÌNH VẼ NÀ KHÔNG CÓ AI LÀM CHU'́NG ĐÂY LÀ HÌNH PHẬT KHI NGÀI BỐN MU'O'I MỐT TUỔI. NGAY ĐẾ ĐẠO CÔNG GIÁO CŨNG KHÔNG CÓ AI NÓI ĐÂY LÀ HÌNH PHẬT .
THU'́ NĂM , NGAY ĐẾN JESUS SINH SAU PHẬT 500 NĂM , NGHĨ LÀ THO'̀I ĐÓ NGÀNH VẼ ĐÃ TIẾN BỘ CAO MÀ CHÍNH JESUS CŨNG KHÔNG CÓ ĐẾN MỘT TẤM HÌNH VẼ LU'U LẠI ; ĐỂ ĐẾN NAY HÌNH JESUS ĐỀU LÀ HÌNH DO CON NGU'O'̀I TU'O'̉NG TU'O'̣NG VẼ RA.
THU'́ SÁU NẾU CÓ HÌNH CHÍNH THU'́C DO PURNA VẼ CÒN LU'U TRYỀN THÌ TÂY PHU'O'NG ĐÃ XÚM LẠI PHÂN CHẤT CARBON ĐỂ TÌM CHÂN GIẢ , KHOA HOC TÂY PHU'O'NG KHÔNG BAO GIO'̀ KHÔNG CHEN VÀO ĐỂ TÌM HIỂU , VÌ KHOA HỌC TÂY PHU'O'NG RẤT TÒ MÒ MUỐN BIẾT RÕ PHẬT LÀ AI ?
THU'́ BẢy , PHẬT ĐU'O'̣C TẢ RẤT KỸ CÓ 36 TU'O'́NG TỐT VÀ 80 TU'O'́NG VI DIỆU , NHU'NG VỊ TRONG HÌNH CHỈ CÓ VẺ LÀ NGU'O'̀I NAM TRÔNG BÌNH THU'O'̀NG CHU'́ KHÔNG CÓ VẺ NÀO ĐẸP HO'N TÀI TU'̉ MỸ VÀ TRAI ĐẸP TRUNG ĐÔNG .
KẾT : ĐÂY LÀ HÌNH BÊU RIẾU ĐẠO PHẬT NÊN HÌNH PHẢI BỊ HỦY ĐI .
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/02/2011(Xem: 12655)
Hết lòng trân quí và ghi nhớ ân đức sâu dầy của sư Sán Nhiên đã biên soạn và hiệu đính tập sách này, cũng như đã hoan hỷ cho phép Hội Thiện Đức ấn tống nhằm góp phần vào công cuộc hoằng hóa Phật pháp đem đến lợi lạc cho nhiều người. Hội Thiện Đức xin biết ơn sự ủng hộ tinh thần và tán thán sự phát tâm đóng góp tịnh tài của quý Phật tử và ân nhân cho công trình ấn tống này. Xin tri ân chị Thân Thục & anh Thân Phúc đánh máy tập sách; anh Thân Hòa trình bày sách bao gồm thiết kế bìa sách; anh Chúc Giới, anh Thiện Tánh, cùng anh Chúc Tùng cung cấp tài liệu và hình ảnh; Tâm Hân Huệ thỉnh ý sư Sán Nhiên; chị Tâm Thiện, chị Chơn Hạnh Bạch, chị Diệu Âm, Thân Hồng, cùng anh chị Lê Lộc (Lancaster, PA) phụ giúp sổ sách, liên lạc, và kêu gọi cho quỹ ấn tống.
22/01/2011(Xem: 14590)
Đại Hội Khoáng Đại kỳ 04 được tổ chức tại Chùa Pháp Hoa, Nam Úc
10/01/2011(Xem: 51854)
Website Liên Kết từ Trang Nhà Quảng Đức
13/12/2010(Xem: 10218)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
10/12/2010(Xem: 11577)
Tập sách này gồm 2 bài giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV, được ngài Rajiv Mehrotra – đệ tử của đức Đạt-lai Lạt-ma – trực tiếp ban cho chúng tôi cùng với 4 bài giảng khác nữa, kèm theo một văn bản cho phép chuyển dịch tất cả sang Việt ngữ và phát hành ở dạng song ngữ Anh-Việt. Phát tâm Bồ-đề là bài giảng được chúng tôi hoàn tất trước tiên và được chọn làm tựa đề cho tập sách này vì tính phổ quát của nó đối với mọi người Phật tử. Bài giảng này có nội dung khuyến khích và hướng dẫn việc phát tâm Bồ-đề, một yêu cầu tối thiết yếu đối với bất cứ ai muốn bước chân vào con đường tu tập theo Phật giáo Đại thừa.
09/11/2010(Xem: 7237)
Các Sa-di-ni thân mến, Chọn “đi tu” làm Sa-di-ni (P. Sāmaṇeri, S. Śrāmaṇeri, 沙彌尼), sau đó, làm Thức-xoa (P. Sikkhamānā. S. Śikṣamānā, 式叉摩那),[1] Tỳ-kheo-ni (P. bhikkhuni, S. bhikṣuṇī, 比丘尼), các con đang đi theo lý tưởng cao cả và hạnh nguyện độ sinh của đức Phật, các bậc Bồ-tát, các Thánh tăng trong lịch sử hơn 2.600 năm của đạo Phật. Đó là diễm phúc lớn của các con và gia đình các con ở đời này. Sa-di-ni có nghĩa đen là “Sa-môn tử” (沙門子), tức người đang tập hạnh làm Sa-môn (P. Sāmaṇa, 沙門). Các Sa-di-ni tuổi thiếu nhi được gọi là “cô tiểu” ở miền Nam, hay “cô điệu” ở miền Trung hoặc “sư bác” ở miền Bắc. Sa-môn là từ chỉ cho các tu sĩ vô thần tại Ấn Độ trong thời cổ đại, không chấp nhận đạo Bà-la-môn đa thần, không chấp nhận Thượng đế, không chấp nhận số phận, cách tu tín ngưỡng và ép xác của đạo Bà-la-môn. Đạo Phật do đức Phật Thích-ca sáng lập là một trong các trường phái Sa-môn, mở ra con đường tỉnh thức, giác ngộ và giải thoát cho nhân loại khỏi tất cả nỗi khổ và niềm đau.
08/10/2010(Xem: 5297)
Truyện thiền không những có tính tôn giáo, triết lý mà còn có giá trị văn học cao. Nó mang ý nghĩa siêu hình, với hình thức ngụ ngôn, bố cục giản lược, trào lộng, kết thúc đột ngột, lại dùng những phương pháp tu từ đặc biệt như điệp ngữ, nghịch lý, đa nghĩa, chữi để mà khen, buông thỏng nửa chừng không kết thúc, lấy câu hỏi để trả lời câu hỏi vv…Đó là đặc sắc của truyện thiền. Cho nên đọc chuyện thiền là vừa học đạo[1] vừa thưởng thức một tác phẩm văn chương kỳ thú.
20/09/2010(Xem: 6334)
ĐứcThế Tôn thường nói: “Cái gì vô thường là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì vô ngã cần phải như thật quán với chánh trí tuệ là 'Cái này khôngphải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã củatôi.'” Một câu hỏi được đặt ra: Tại sao tư tưởng vô ngã lại được diễn đạt như là hệ quả từ thực tế khổ? Lý do để giải thích có thể rút ra từ Tiểu kinh Saccaka (Cūḷasaccaka Sutta), Trung Bộ kinh... Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
28/06/2010(Xem: 18859)
Bản dịch Việt Bích Nham lục được thực hiện với một tấm lòng tôn kính, cảm phục tài đức của giáo sư Wilhelm Gundert (12. 4. 1880-3. 8. 1971). Vì W. Gundert đã giới thiệu tường tận về tác phẩm độc nhất vô nhị này nên dịch giả người Việt hạn chế tối đa những lời dư thừa, chỉ đề cập đến nguyên tắc dịch, một vài nét đặc biệt cũng như kĩ thuật được áp dụng trong bản dịch Việt:
08/01/2009(Xem: 12571)
Trong tập sách này, tác giả Nguyễn Tường Bách trình bày lại các chặng đường quan trọng trong quá trình phát triển của ngành vật lý và triết học về khoa học tự nhiên trong hơn 25 thế kỷ qua. Tác giả chú trọng đặc biệt đến sự phát triển của hai lý thuyết vật lý quan trọng nhất trong thế kỷ 20, thuyết tương đối và thuyết lượng tử cũng như ý nghĩa triết học của chúng. Chính những lý thuyết này sẽ giúp bạn đọc hiểu được mối liên hệ với triết học và tư tưởng Phật giáo ở phần sau. Vẫn xoay quanh những câu hỏi muôn đời của loài người "vũ trụ là gì, từ đâu mà có?", "thực tại trước mắt chúng ta thực chất là gì?", "bản chất của thực tại vật chất là gì?"…, tác giả dẫn dắt chúng ta theo một hành trình từ vật lý đến triết học rồi gõ cửa và dừng chân ở tư tưởng Phật giáo để lý giải thế giới hiện tượng. "Cuộc sống là một dòng tâm thức bất tận, không đầu không đuôi… Hãy đơn giản hóa một đời thành một ngày. Đời này của chúng ta như là ngày hôm nay…"
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567