Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần thứ III: Các bài sám văn - báo hiếu - cầu an

10/05/201318:01(Xem: 16358)
Phần thứ III: Các bài sám văn - báo hiếu - cầu an

Tuyển tập các bài sám văn - Tập IV: 55 Bài sám văn chọn lọc

Phần thứ III: Các bài sám văn - báo hiếu - cầu an

Thích Đồng Bổn sưu tập

Nguồn: Thích Đồng Bổn sưu tập

194. SÁM HIẾU TỪ
(Sám báo hiếu 11)


Nước sông nọ có nguồn mới chảy.
Hạt thóc kia có cấy mới lên
Phàm phu cho đến Thánh Hiền
Nếu không cha mẹ sao nên thân người
Trong mười tháng mặt xanh da bủng
Vì nuôi con bụng ỏng lưng eo
Ba năm bú mớm nâng niu
Cam sài mẹ chịu hẩm hiu mẹ buồn
Hai bầu sữa nước nguồn khôn ví
Dạ nuôi con sá kể nhọc nhằn.
Ðêm đông ấp nệm ủ chăn
Chiếu giường ẩm ướt dành thân mẹ nằm
Năm canh những âm thầm với bóng
Mong cho con chóng lớn nên người
Tháng hè như nấu như sôi
Tay xoa tay quạt mồ hôi đầm đìa.
Hàm răng cũng thường khi biếng xỉa.
Ðài gương soi cũng để bụi mờ
Xuân xanh mấy chốc đã già.
Trời cao bể rộng khôn mà ví ơn.
Còn cha phải tìm cơm lo cháo
Vì con lo quần áo đơn mền.
Một ngày dần một lớn lên
Ðón Thầy tìm bạn bút nghiên học hành
Dạy ăn nói cho thành khuôn phép
Ðạo làm người dạy biết nông sâu
Lại cho dựng vợ gả chồng
Gây cơ lập nghiệp nối dòng mai sau
Công đức nặng trên tày non Thái
Ðạo làm con ta phải biết ngần
Sớm khuya phụng dưỡng chuyên cần
Ðem lòng phụng Phật sự Tăng mới là
Khi ăn ở vào ra hầu hạ
Dung nhan thường hòa nhã vui tươi
Không may trái nắng trở trời
Tìm thầy tìm thuốc đêm ngày dưỡng nuôi
Mùa nóng nực không ngơi tay quạt
Tiết ngày đông sắp đặt màn chăn
Vì cha mẹ quý hơn thân
Nhẹ bên tình ái, nặngï phần cù lao
Gương hiếu hạnh kể sao cho xiết
Muôn điều lành kể liệt đầu tiên
Kìa như Nghiêu Thuấn vua hiền
Bởi tùy thuận ý chẳng phiền lòng cha
Ông Mạnh Tử sương sa rét mướt
Mảnh áo lau cảm được lòng từ
Gương con nuôi mẹ chuyện xưa
Kìa ông Quách Tử trời cho lọ vàng.
Chẳng qua đấng anh hùng hào kiệt
Hiếu có tròn sự nghiệp mới cao,
Muốn người thoát khỏi trần lao
Công ơn cốt dục nỡ nào làm quên
Vứt bỏ tấm thân nên chẳng đoái
Quyết mọi điều ân ái bước ra
Sắc trần chẳng chút nhuộm qua
Giàu sang trò ảo, vinh hoa chuyện đời
Chí Lục độ bằng mười rắn rỏi
Chữ Từ ân thúc gọi bên tai
Vì mình thoát khỏi trần ai
Mẹ cha hẳn được lên đài tiêu dao
Ðấng Ðại giác kề bao nhiêu kiếp
Vì sinh thành chịu chết cũng cam
Mục Liên dốc một hiếu tâm
Thần thông đắc đạo ơn thâm trả đêàn.
Mẹ ngục tối trở lên Tịnh độ
Con như ngài tiến bộ mới cao
Ba la mật thác sinh vào
Là ngài Ðịa Tạng má đào lạ thay
Gậy tích trượng ra tay cứu mẫu
Ngọc minh châu soi thấu cõi đời
Kiếp sau lại trở làm người
Với tên Quang Mục đứng ngồi nghiêm trang
Thích trứng cá mẹ mang tội báo
Vào ngục ngài hóa đạo sinh thiên
Hiếu như thế mới nên đại hiếu
Tu như ngài mới hiểu đường tu
Dẫu như thế tục khư khư
Ngọt bùi ấm lạnh chăm lo thân thờ.
Một ngày yên giấc ngàn thu
Hồn mê ngơ ngẩn bây giờ nương đâu ?
Hiếu thế tục, chỉ trầu cơm nước
Hiếu Phật đà giải thoát luân hồi
Dám khuyên khắp cả mọi người
Báo ơn khá tỏ chớ sai lầm đường
Khuyên cha mẹ ngày thường niệm Phật
Miệng hằng nên nói thật ăn chay
Chúng sanh nghiệp sát đừng gây
Tu hành thập thiện trồng cây phúc lành
Dù một kiếp chưa thành chánh giác.
Song nhân lành quả chắc có phen
Làm người phải dứt trần duyên
Tu hành gắng gỏi báo đền ơn sâu
Khỏi mang tiếng cạo râu cắt tóc
Không thẹn thân khoát phúc điền y
Phật nhà trước hãy thờ đi.
Phật nhà chưa biết, biết chi Phật chùa
Lời thành thật con vừa trình tấu
Cầu Thế Tôn hiểu thấu lòng con
Từ bi tế độ vuông tròn (vong hồn)
Siêu sanh lạc quốc ngồi trên đài vàng.
Nam Mô Siêu Lạc Ðộ Bồ Tát Ma Ha Tát.

 Bài truyền khẩu chép lại - chưa rõ xuất xứ - do Dương Kinh Thành cung cấp.
 Tìm thấy trong tập bản thảo đánh máy của tủ sách Giác Ðạo Như Tâm - Thủ Ðức 1979.

195. VĂN PHÁT NGUYỆN BÁO ÂN PHỤ MẪU
(Sám tụng Vu lan 7)


Cúi đầu kính lạy Phật
Từ tôn trên ba cõi
Dủ lòng thương cứu độ
Chúng sanh khắp mười phương
Con này phát nguyện lành
Trì tụng kinh báo ân
Ðáp nghĩa cùng mẹ cha
Ðược nghe tám thứ tiếng
Cùng với năm lời nguyền
Hay là mọi khổ hạnh
Thâm ân chẳng thể đền
Lòng con nay dũng mãnh
Trì tụng lễ Tam bảo
Ðền cả bốn trọng ân
Khắp giúp ba đường khổ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát Bồ đề tâm
Ðền đáp báo thâm ân
Khuất còn đều lợi lạc
Ai trì tụng kinh nầy
Sau đây cũng thành Phật
Xin Phật cởi mở cho
Tất cả các chúng con
Ðều trọn thành Phật đạo.
Nam Mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát.
 Trích trong "Nghi thức tụng niệm " - Chùa Niệm Phật Bình Dương ấn hành 1970. - Là bài phát nguyện trước hoặc sau khi tụng kinh Báo Ân tháng bảy hằng năm.

196. SÁM DƯỢC SƯ CẦU TIÊU TAI
(Sám tán cầu an 4)


Lòng thành đệ tử xin cầu
Nhờ ơn đức Phật cứu âu tai nàn
Vì trong bá tánh chẳng an
Nương kinh công đức lập đàn Dược Sư
Nguyên do những khổ bấy chừ
Thảm thương dân chúng quá ư đau lòng
Chẳng nài có của cùng không
Ngày đêm lạy Phật ra công khẩn cầu
Nguyện cho khắp cả đâu đâu
Nhơn nhơn xứ xứ bớt sầu bớt lo
Nhà nhà ăn mặc ấm no
Hưởng phần vui vẻ đồng lo tu hành
Biết đời diệt diệt sanh sanh
Có không không có tan tành đổi thay
Khác nào như gió như mây
Như sương như điển hiện nay rõ ràng
Ðó là lẽ sự thế gian
Mau mau tránh khỏi tầm đàng chơn tu
Nguyện theo chánh pháp vô dư
Hoàn toàn dứt khổ đồng chư Phật đà
Phân thân qua cõi Ta bà
Từ bi tiếp độ những là chúng sanh
Nguyện cho bá tánh tu hành
Ðồng về cực lạc đồng sanh sen vàng
Nam mô tịnh độ Lạc bang
Chứng minh đệ tử Tây phang mau về.

 Trích soạn theo "Pháp Môn Tu Tịnh Ðộ" - Chùa Ðại Giác ấn hành Sàigòn 1974.

197. SÁM CẦU TẬT BỆNH TIÊU TRỪ
(Sám tán cầu an 5)


Cúi đầu lễ Phật Di Ðà
Dược Sư hải hội cùng là Quan Âm
Mở khai đức rộng thậm thâm
Xót thương pháp giới lỗi lầm cứu con
Thân tật bệnh mỏi mòn đau yếu
Vì huyễn thân triền níu nghiệp trần
Chí thành lạy Phật ân cần
Cầu cho tật bệnh giảm lần hiểm nguy
Hoặc tội ác khinh khi Tam Bảo
Miệng hung hăng chẳng kể Thánh thần
Tạo nhiều oan nghiệp xoay vần
Nhồi căn trả quả chịu phần ốm đau
Lúc mê muội cầm dao mổ xẻ
Chặt nấu bầm giết hại chúng sanh
Món ăn vừa miệng ngon lành
Ngày nay thọ bệnh tử sanh đáo đầu
Dẫy đầy oan nghiệp thẩm sâu
Xét ra mới biết từ lâu lỗi lầm
Kiếp tạo ác lung lăng không kể
Nay ốm đau làm lễ khẩn cầu
Cho hay nhân quả nhiệm mầu
Giống chi hưởng nấy tránh đâu khỏi nàn
Nay sám hối lập đàn cầu nguyện
Ðức từ bi linh hiển độ con
Nhẹ nhàng các nghiệp tiêu mòn
Thân này dứt hết chẳng còn ốm đau
Quả nhơn chẳng trước thời sau
Gẫm cơn báo ứng chậm mau mấy hồi
Nay con sám hối đã rồi
Tu hành theo Phật đền bồi tội xưa
Từ nay việc ác nguyện chừa
Nguyện làm việc thiện ngăn ngừa vọng tâm
Bao nhiêu oan nghiệp lỗi lầm
Con xin sám hối thân tâm đêm ngày
Bệnh căn qua khỏi nạn tai
Quy y Tam bảo trì trai tu hành
Nguyện về tịnh độ Lạc thành
Cầu cho thoát khỏi tử sanh luân hồi
Cõi trần khổ não lắm thôi
Quyết lòng niệm Phật về ngôi sen vàng
Nam mô tịnh độ Lạc bang
Dắt dìu đệ tử Tây phang mau về.

 Trích soạn theo "Nghi thức tụng niệm" - Niết Bàn Tịnh Xá ấn hành - Vũng Tàu 1970.

198. SÁM CỨU KHỔ QUAN THẾ ÂM
(Sám tụng Quan Âm 7)


Cúi đầu lạy Phổ Ðà Phật Tổ
Quan Thế Âm cứu khổ hồng trần
Từ bi phổ tế lê dân
Muôn loài nhuần gội hồng ân đức Ngài
Xin độ kẻ hằng ngày chiêm ngưỡng
Giúp người lành hạnh hưởng phước duyên
Gió giông sa đọa ghe thuyền
Tâm thành khẩn đảo, tai liền giảm tan
Rủi lầm bước vào đàng đạo tặc
Vướng đao binh thắt ngặt thảm sầu
Nhờ ơn bủa khắp bốn châu
Tiếng than xúc động tầm âu độ người
Hoặc hung bạo bị nơi xiềng tỏa
Ở hiền lành mắc họa thình lình
Chí thành khẩn vái thánh minh
Quan Âm Bồ Tát anh linh cứu nàn
Gặp yêu quái cản đàng ngăn ngõ
Ðức Từ hàng chẳng bỏ người lành
Tà mà nghe đến oai danh
Mắt không dám ngó khó hành hại thân
Cảm, thử, thấp, tâm thần trầm trệ
Mang bệnh căn thân thể xốn xang
Hồn mơ chợt tỉnh trí ngoan
Quan Âm niệm đặng, tai nàn sẽ tiêu
Người vô tự, quạnh hiu sau trước
Sửa tấc lòng tác phước khẩn cầu
Cho trai hiển đạt trí mầu
Gái ngoan đoan chánh ngõ hầu thuần lương
Lòng thê thứ nhiều phương tin tưởng
Quan Thế Âm liệu lượng hóa thân
Xót thương trợ kẻ phàm trần
Dắt dìu thuyết pháp chóng gần Phật tiên
Trí ngu muội đảo điên minh mẫn
Tánh sân si cầu khẩn giải oan
Như lòng tà dục dấy loàn
Sớm khuya tụng niệm đặng an tinh thần
Cơn nước lửa khó phần trốn tránh
Lúc hiểm nguy tâm tánh kinh hoàng
Thật lòng khấn vái khỏi nàn
Nhành dương cam lộ rưới tan diệu kỳ
Ðệ tử chúng con qui mạng lễ
Mong ơn trên phổ tế mười phương
Chúng sanh thoát chốn tai ương
Tránh nơi khổ não, tránh đường chông gai
Nhờ Bồ Tát, Như Lai lân mẫn
Ðộ cho con tinh tấn tu hành
Bền lòng chặc dạ kính thành
Lâm chung mau đặng vãng sanh sen vàng
Cầu cho cha mẹ bình an
Cửu huyền thất tổ nhẹ nhàng siêu thăng
Muôn dân phước lộc thọ tăng
Nhà yên nước thạnh, người năng làm lành
Mỗi người phát nguyện tu hành
Ðồng về Tịnh độ, đến thành Lạc bang.
Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi, Cứu Khổ Cứu Nạn, Quảng Ðại Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.
 Trích "Nghi Thức Tụng Niệm" - Niết Bàn Tịnh xá - Vũng Tàu 1970.

199. SÁM PHÁT NGUYỆN THẾ PHÁT (I)
(Sám phát nguyện 23)


Con từ lâu dại ngây mê tối
Chốn sáu đường qua lại luôn luôn
Biết bao đau khổ rầu buồn
Não phiền trói buộc vô thường chuyển luân
Cũng vì chấp huyễn thân là thật
Lấy giả danh làm vật thường còn
Cho thân là quí là hơn
Sửa sang sắc đẹp , áo quần , tóc mây
Vì đầu tóc mà gây nhơn quả
Tạo nghiệp duyên sa đọa đời đời
Biết bao nam nữ anh tài
Sa vào lưới dục hình hài lửa thiêu
Vì đầu tóc bao nhiêu phụ nữ
Sanh lòng ghen giận dữ thất tình
Rã tan bao cảnh gia đình
Tài ba thất đảo nước thành ngả nghiêng
Vì đầu tóc bao phen cực khổ
Lâm vào đường chồng vợ oan gia
Lại thêm cực khổ mẹ cha
Bà con quyến thuộc ruột rà anh em
Ðã ngu tối lại buồn một nỗi
Theo sách xưa thường lối dạy rằng
Tóc da thân thể sáu căn
Do cha mẹ tạo cấm hằng hủy thương
Giữ được vậy trọn đường nhân đạo
Ấy là con hiếu thảo trọn nghì
Nào ngờ càng giữ càng si
Thân này tạo tội tóc ni kết đầy
Tóc nầy kết tạo oan gia
Lâm vào biển khổ tột ta vẫn còn
Thân tật bệnh mỏi mòn ốm yếu
Bởi nghiệp căn triền níu xác thân
Chướng duyên ác nghiệp cõi trần
Phát ra đau nặng thất thần ăn năn
Nay sám hối ân cần phát nguyện
Thọ tam qui thoát biển trần lao
Tóc nầy nguyện cạo sạch đầu
Tẩy trừ nghiệp chướng hết mau bịnh tình
Xin cắt tóc dứt tình oan trái
Tóc sạch rồi rảnh khỏi đàn ba
Nguyện cầu chồng vợ mẹ cha
Thân bằng quyến thuộc cùng là chúng sanh
Thảy tu về cõi Lạc thành
Ðều nên Phật đạo, đều sanh sen vàng.
Nam Mô Tiêu tai tăng Phước Thọ Bồ Tát.
 Trích từ "Nghi thưc tụng niệm" - Chùa Ðại Giác trang 287-289 - Sàigòn 1974. Bài sử dụng cho lễ xuống tóc của hàng cư sĩ khi họ cầu nguyện điều gì có phát nguyện xuống tóc một lần .

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/08/2014(Xem: 18124)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”. Tuy nhiên, từ khi tổ Bồ-đề Đạt-ma đến Trung Hoa (vào khoảng năm 520) cho đến lúc Thiền tông Trung Hoa thực sự phát triển hưng thịnh, đã phải mất gần hai thế kỷ, truyền qua năm đời tổ sư, cho đến vị tổ thứ sáu là Huệ Năng (638 - 713) thì Thiền tông mới thực sự trở thành một trong những tông phái mạnh nhất của Phật giáo Trung Hoa. Với sự hoằng hóa của Lục tổ Huệ Năng ở đất Tào Khê, Thiền tông đã lan rộng ra khắp nơi và không bao lâu đã phát triển thành 5 tông Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn. Quả đúng như bài kệ nổi tiếng được cho là do tổ Đạt-ma truyền lại:
17/08/2014(Xem: 27457)
Tập sách mỏng này được hình thành từ một ý tưởng sáng tạo khá độc đáo của các tác giả. Nội dung chính của tập sách dựa vào hai bản kinh: Phụ mẫu ân nan báo kinh và Thi-ca-la-việt lục phương lễ kinh. Tuy nhiên, đây không chỉ là bản dịch tiếng Việt của những kinh này, mà các tác giả đã dựa vào đây để truyền đạt lại nội dung theo phong cách kể chuyện, với lối văn giản dị và trong sáng, dễ hiểu. Bằng cách này, chắc chắn những nội dung truyền đạt nơi đây sẽ trở nên gần gũi, dễ nắm bắt hơn đối với các bạn trẻ, là đối tượng chính yếu của tập sách.
17/08/2014(Xem: 24073)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
17/08/2014(Xem: 19290)
Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo là ba cái nguồn gốc văn hóa của dân tộc Việt nam ta từ xưa. Nho giáo dạy ta biết cách xử kỷ tiếp vật, khiến ta biết đường ăn ở cho phải đạo làm người. Đạo giáo lấy đạo làm chủ tể cả vũ trụ và dạy ta nên lấy thanh tĩnh vô vi nơi yên lặng. Phật giáo dạy ta biết cuộc đời là khổ não, đưa ta đi vào con đường giải thoát, ra ngoài cuộc ảo hóa điên đảo mà vào chỗ Niết-bàn yên vui.
17/08/2014(Xem: 14819)
Phát tâm Bồ Đề - Đạt Lai Lạt Ma; Việt dịch: Phan Châu Pha - Tiểu Nhỏ
17/08/2014(Xem: 21220)
Nhân quả là định luật căn bản xuyên suốt quá trình thành trụ hoại diệt của tất cả chúng sinh từ đời này sang đời khác, cho đến vũ trụ, vạn vật cũng không phải tuần hành, biến dịch một cách ngẫu nhiên, vô lí, mà luôn tuân theo định luật nhân quả. Định luật này không do một đấng thần linh nào, xã hội nào đặt ra cả, mà là luật tự nhiên, âm thầm, lặng lẽ, nhưng luôn đúng đắn, chính xác, hiệu quả vô cùng.
17/08/2014(Xem: 14014)
Tuyết rơi từ vào khuya, mặt trời vừa mọc, tuyết đã ngập trắng vườn sau. Tôi đẩy thêm một khúc củi vào lò. Nhìn lửa bốc ngọn, nhớ lại mấy vần thơ cũ đã quên mất cả nguyên văn: Chàng như mây mùa thu Thiếp như khói trong lò Cao thấp tuy có khác Một thả cũng tuyệt mù Đọc lại bài thơ rất nhỏ, từng chữ, từng vần. Rất nhỏ, đủ để một mình mình nghe. Cho đến khi lời thơ tan rã, ý thơ nhạt nhòa, cho đến khi trong tôi, về bài thơ, rớt lại chỉ còn một chút buâng khuâng không tên thì tôi lặng thinh đi vào cái buâng khuâng đó. Quanh một chữ. Tuyệt mù. Nghĩ đến một cánh chim thoáng trên mặt nước. Bóng chim, nước không lưu giữ. Chim đâu lưu giữ lại đường bay? Khói mây tan tác. Âm thanh, màu sắc cũng vậy. Cũng vậy, thiếp và chàng. Tất cả, một thả cũng tuyệt mù. Kể cả chữ và lời. Kinh và kệ. *
17/08/2014(Xem: 16814)
Tôi rất vui mừng được giới thiệu cùng quý vị độc giả tập sách này - được trình bày song ngữ Anh-Việt - như một cầu nối giữa tri thức khoa học phương Tây và trí tuệ trực giác phương Đông, điều mà tôi vẫn luôn cho là một trong những thành tựu đáng kể nhất của nhân loại vào đầu thiên niên kỷ này. Trong nguyên tác, đây là những ghi nhận từ một cuộc phỏng vấn mà đức Đạt-lai Lạt-ma đã dành cho học giả Mike Austin. Nhan đề tiếng Việt của sách và tiêu đề của một số chương là do chúng tôi tự đặt để giúp độc giả tiện theo dõi nội dung từng phần. Tuy nhiên, để tránh sự ngộ nhận, chúng tôi đã không đặt thêm các tiêu đề tiếng Anh tương ứng.
17/08/2014(Xem: 18675)
Chúng con xin trân trọng giới thiệu bộ sách ĐỐ VUI PHẬT PHÁP đến cùng chư vị với tâm nguyện góp một phần nhỏ vào việc chia sẻ những lời Phật dạy cho lớp trẻ hôm nay. Cuốn sách được hình thành từ năm 2001, khi chúng con thử nghiệm tổ chức những lớp học Phật pháp cho các em thiếu nhi ở những vùng sâu, vùng xa của các tỉnh Đồng Tháp, Vĩnh Long, Bến Tre, Long An... Khi ấy, vì thiếu thốn giáo trình dành cho thiếu nhi, chúng con đành mạo muội tự biên soạn để có cơ sở giảng dạy. Tài liệu tham khảo lấy từ nhiều nguồn, nhưng chủ yếu dựa vào bộ Phật học phổ thông của Hòa thượng Thích Thiện Hoa. Vừa làm, vừa áp dụng vào thực tế, chúng con đã rút kinh nghiệm chỉnh sửa dần dần. Đến nay, đã thử nghiệm giảng dạy cho hàng nghìn em, nhận thấy tương đối phù hợp và đạt hiệu quả tốt nên chúng con mới dám xuất bản một cách chính thức, mong sẽ hỗ trợ cho những ai có nhu cầu học Phật có thêm một tài liệu để tham khảo.
17/08/2014(Xem: 12263)
Văn hóa ẩm thực có từ lâu đời. Việc ăn chay được Phật giáo truyền bá và phát triển từ tinh thần từ bi, hình thành một số nét văn hóa trong việc ăn chay với nhiều nét đặc sắc, trong đó Văn hóa Thiền - Trà từ sự kết hợp giữa ý nghĩa của việc thưởng trà và những điều tinh yếu của Đạo Phật. Trà và Thiền có nhiều nét tương đồng nên sự kết hợp của chúng đã hình thành một hình thức sinh hoạt tao nhã trong ẩm thực Phật giáo: Những tách trà Thiền. Đó cũng là lý do ra đời của tập sáchThiền trà và Ăn chay.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]