Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phân loại sám văn theo nhóm đề tài và ý nghĩa

10/05/201316:31(Xem: 16780)
Phân loại sám văn theo nhóm đề tài và ý nghĩa

Tuyển tập các bài sám văn (5 quyển)

Phân loại sám văn theo nhóm đề tài và ý nghĩa

Thích Đồng Bổn sưu tập

Nguồn: Thích Đồng Bổn sưu tập

Ðể có thể nhận diện được tổng thể hệ thống loại hình sám văn, đó là cách phân loại theo nhóm đề tài và ý nghĩa. Tuy nhiên, vì sám văn có quá nhiều chủ đề, tùy theo lĩnh vực mà sử dụng riêng khác, nên rất phong phú đa dạng. Ðể nắm được tổng thể bố cục của cách phân loại nầy, chúng tôi xin khái lược về các cách phân loại có liên hệ trực tiếp. Qua đó, chúng ta có cơ sở để nhận diện được toàn hệ thống phân loại.
- Trước tiên, là hệ thống phân loại theo chữ viết. Sám văn được hình thành từ ba loại chữ viết Hán, Nôm, và Việt Ngữ. Cho nên trong bản phân loại có phân ra phần sám văn âm chữ Hán đứng riêng một nhóm. Còn giữa văn Nôm và chữ Việt, chúng tôi chưa phân vì hiện nay văn Nôm cũng đã chuyển ngữ hoàn toàn để phổ biến. Phần nầy sau này chúng tôi sẽ có phân tích riêng cho việc nghiên cứu về cổ bản.
- Thứ hai là hệ thống phân loại theo thể loại. Căn cứ trên cách ứng dụng các thể loại văn chương được sử dụng tùy theo ý nghĩa buổi lễ, và tính đặc thù của sám văn phổ biến rộng rãi. Chúng tôi chia làm bốn thể loại chính :
A. Sám tụng.
B. Sám tán.
C. Sám nguyện.
D. Sám vịnh.
1. Sám tụng : Là các bài sám văn tụng niệm chính thức trong các lễ vía, đại lễ, kỷ niệm. Tụng hòa chúng, hoặc bằng mõ, hoặc với các pháp khí. Vẫn có thể sử dụng qua các thể loại khác như Sám tán, Sám nguyện không trở ngại.
2. Sám tán : Là các bài sám văn tán thán chư Phật, Bồ Tát, Thánh Hiền, sử dụng trong các thời khóa hằng ngày sau thời tụng kinh chính, cách tụng chậm rãi có giai điệu trầm bổng tán dương, đi với pháp khí hòa nhịp, hoặc lễ nhạc. Ðây là thể loại thường dùng nhất trong các chùa, có thể sử dụng thông cả ba thể loại kia.
3. Sám nguyện : Là các bài sám dùng để sám hối, phát nguyện cho hành giả. Thể loại nầy có thể dùng bất cứ cách nào: Tâm nguyện đọc thầm, đọc lớn, tụng tán, ngâm.. tùy ý diễn đạt của hành giả, hoặc cá nhân hoặc đại chúng.
4. Sám vịnh : Là các bài sám văn, các áng văn thơ, văn tế có tính văn học, nghệ thuật. Dùng để ngâm vịnh, đọc tế, tán tụng cho tự mình thưởng thức, hay cho đại chúng trong các trai đàn lễ hội, mang tính hấp dẫn, chú ý người nghe.
Từ bốn thể loại, hay bốn cách dụng thực tiễn này của loại hình sám văn, là cơ sở để chúng ta nhận diện được hệ thống phân loại theo nhóm đề tài và ý nghĩa. Trong mỗi thể loại như vậy, có nhiều nhóm đề tài. Trong mỗi nhóm đề tài, lại có các đề mục đề tài. Trong mỗi các đề mục đề tài, có các sám văn cụ thể.
Sau đây là bảng thống kê phân loại theo đề tài và ý nghĩa:

BẢNG THỐNG KÊ PHÂN LOẠI
LOẠI HÌNH SÁM VĂN TOÀN TẬP

sốTTTÊN NHÓM ÐỀ TÀITUYỂN TẬP ITUYỂN TẬP IITUYỂN TẬP IIITUYỂN TẬP IVTUYỂN TẬP VTHỂ LOẠI
MÃ SỐBÀI SỐMÃ SỐBÀI SỐMÃSỐBÀI SỐMÃ SỐBÀI SỐMÃ SỐBÀI SỐ
1SÁM HỐI NGUYỆN1568IIIIIIIV747981VVIVII128134140141VIIIIXXXI176178XIIXIIISÁM NGUYỆN
2SÁM PHÁT NGUYỆN2373945IIIIIIIVV767780VIVIIVIII124126135136139IXXXIXIIXIII166174175177179182189XIVXVXVIXVIIXVIIIXIXXX190191192199XXIXXIIXXIIIXXIV- nt -
3SÁM KHỂ THỦ410III70III131IV180V- nt -
4SÁM QUI MẠNG913III71 73IIIIV132V181VI- nt -
5SÁM NGÃ NIỆM1112III138III183IV- nt -
6SÁM THẬP PHƯƠNG343637IIIIII130IVSÁM TÁN
7SÁM NHẤT TÂM35I72II129IIInt
8SÁM TỤNG PHẬT XUẤT GIA14ISÁM TỤNG
9SÁM TỤNGPHẬT NIẾT BÀN18I120IInt
10SÁM TỤNG PHẬT ÐẢN15I93II119IIInt
11SÁM TỤNG PHẬT THÀNH ÐẠO17I15II- nt -
12SÁM TỤNG VU LAN1627III167168169170195IIIIVVVIVII- nt -
13SÁM TỤNG QUAN ÂM2324III8889IIIIV121122VVI198VII- nt -
14SÁM TỤNG CHƯ BỒ TÁT222526IIIIII86 87IV v173VI- nt -
15SÁM TỤNGDI LẶC19I8592IIIII- nt -
16SÁM TỤNGDI ÐÀ909194IIIIII125IV171172VVI- nt -
17SÁM TÁN BỔN SƯ20I84II133IIISÁM TÁN
18SÁM TÁNDI ÐÀ2132333840IIIIIIIVV127VI- nt -
19SÁM CẦU NGUYỆN THÁI BÌNH44I118II- nt -
20SÁM TÁN CẦU AN28I99II145III196197IVV- nt -
21SÁM TÁN CẦU SIÊU2930III101102103IIIIVV144150151153154155VIVIIVIIIIXXXI201202203204205206XIIXIIIXIVXVXVIXVII- nt -
22SÁM BÁO HIẾU414243IIIIII969798IVVVI143147148149VIIVIIIIXX194207208XIXIIXIII- nt -
23SÁCH TẤN TU TẬP8283III156157158IIIIVV184185186187188VIVIIVIIIIXXSÁM VỊNH
24THÍ THỰCCÔ HỒN106107108109IIIIIIIV161162163164VVIVIIVIII200210211212I XXXIXII- nt -
25CẢNH TỈNH VÔ THƯỜNG465051IIIIII104105IVV152159VIVII209VIII- nt -
26SÁM HỒI TÂM47I7578IIIII137IV193215216218VVIVIIVIIISÁM NGUYỆN SÁM VỊNH
27VĂN KHUYẾN TU4849525354IIIIIIIVV100VI142146160VIIVIIII X213214217219XXIXIIXIIISÁM VỊNH SÁM TÁN
28BÁT NHÃ TÂM KINHVÀ PHỤ LỤC55I110II12165III3220IVSÁM TỤNG
29SÁM VĂN ÂM CHỮ HÁN5657585960616263646566676869IIIIIIIVVVIVIIVIIII XXXIXIIXIIIXIV111112113114115116117XVXVIXVIIXVIIIXIXXXXXISÁM NGUYỆN SÁM TỤNG SÁM TÁN
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/01/2012(Xem: 9061)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua. Nội dung chủ yếu nói về nhân cách của bậc Đạo sư, giáo pháp của Ngài và lợi ích thiết thực khi thực hiện những lời dạy ấy. Tất cả các bài viết được trình bày một cách giản dị, mạnh lạc, rõ ràng, nhằm giới thiệu nội dung Phật học cơ bản được trích dẫn từ một số kinh điển Bắc truyền và Nam truyền.
25/12/2011(Xem: 11650)
Một thuở nọ đức Phật ở trong núi Thứu Phong, thuộc thành Vương Xá cùng với một ngàn tám trăm vị Tỳ-kheo đều là A-la-hán, đã diệt tận các lậu, không còn phiền não, tâm hoàn toàn giải thoát, tuệ hoàn toàn giải thoát, đạt chín trí, mười trí, việc làm đã làm xong, quán đúng như thật về ba điều giả, quán ba không môn, đã thành tựu công đức hữu vi và công đức vô vi. Lại có tám trăm vị Tỳ-kheo ni đều là A-la-hán. Lại có vô lượng vô số đại Bồ-tát với thật trí bình đẳng, đoạn hẳn phiền não chướng, có phương tiện thiện xảo phát hạnh nguyện lớn, lấy bốn nhiếp pháp làm lợi ích chúng sanh, đem bốn tâm vô lượng che trùm tất cả, ba minh thấu suốt, chứng đắc năm thần thông, tu tập vô biên pháp Bồ-đề phần, có kỹ thuật thiện xảo vượt hơn mọi người trên thế gian, thâm nhập rõ về duyên sanh, không, vô tướng, vô nguyện, ra vào diệt định, thị hiện khó lường, thu phục ma oán, hiểu rõ cả hai đế với pháp nhãn thấy biết tất cả nguồn căn của chúng sanh, với bốn vô ngại giải giảng nói không sợ sệt, với mười lự
24/10/2011(Xem: 9557)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm không tìm thấy trong Đại tạng kinh. Kinh này chắc là do một vị cao tăng Phật giáo Việt Nam biên soạn, nhưng biên soạn vào lúc nào thì chưa ai biết được. Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường, từ bi cao lớn tợ trời xanh che trùm chẳng thấy ngằn mé, cúng thân bất hoại, rộng phát mười hai nguyện đẹp, trải vô lượng kiếp, linh ứng năm trăm tên lành.” (Nhân tu lục độ, quả chứng nhất thừa, thệ nguyện hoằng thâm, như đại hải chi uông dương bất trắc, từ bi quảng đại, nhược trường thiên chi phú đảo vô ngân, hiến bất hoại thân, quảng phát thập nhị nguyện, lịch vô lượng kiếp, linh cảm ngũ bách danh.)
12/10/2011(Xem: 19028)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
25/08/2011(Xem: 8368)
Cách đây hơn 25 thế kỷ, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã chỉ ra rằng những gì chúng ta nhận biết về chính bản thân mình qua tri giác thông thường là không đúng thật. Trong khi ta luôn nhận biết về một bản ngã cụ thể đang hiện hữu như là trung tâm của cả thế giới quanh ta, thì đức Phật dạy rằng, cái bản ngã đối với ta vô cùng quan trọng đó thật ra lại hoàn toàn không hề tồn tại trong thực tiễn theo như cách mà ta vẫn nhận biết và mô tả về nó...
27/07/2011(Xem: 10634)
Tiếp theo hai tập, Nhận thức và Không tánh (2001) và Tánh khởi và Duyên khởi (2003), sách Nhân quả đồng thời lần này thu góp các bài học Phật luận cứu các vấn đề Tồn tại và Thời gian, Ngôn ngữ, Giáo nghĩa, và Giải hành liên quan đến nguyên lý Duyên khởi mà Bồ tát Long Thọ nêu lên trong bài tụng tán khởi của Trung luận, bản tiếng Phạn. Các vấn đề này được tiếp cận từ hai phía, bản thể luận và triết học ngôn ngữ, và được trình bày trong ba Phần: (1) Vô thường, Duyên khởi, và Không tánh, (2) Phân biệt, Ngôn ngữ, và Tu chứng, (3) Tín, Giải, Hành, Chứng trong Hoa nghiêm. Toàn bộ bản văn quyển sách để in PDF (7,1 MB)
04/07/2011(Xem: 9538)
Cụ bà Hà Nội 20 năm tập 5 thức yoga Tây Tạng Bà Lê Thu Hồng, 75 tuổi, hàng sáng đều dành 15 phút tập 5 thế yoga để rèn luyện sức khỏe.
24/05/2011(Xem: 12427)
Hòa thượng Tịnh Sự, thế danh là Võ Văn Đang, sinh năm Quí Sửu (1913), trong một gia đình có truyền thống Nho giáo, tại một vùng quê miền Nam, xã Hòa Long, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ Ngài là cụ Võ Văn Tỏ, thân mẫu là cụ Trần Thị Thông. Năm 7 tuổi Ngài đã học chữ Nho. Rất thông minh, Ngài được người đương thời gọi là “Thần đồng Lê Quí Đôn”. Do túc duyên sẵn có từ nhiều đời, đến năm 12 tuổi Ngài xuất gia và thọ giới Sa Di tại chùa Bửu Hưng (Sa Đéc). Thấy Ngài quá thông minh nên Bổn sư đặt pháp danh là Thích Huệ Lực. Năm 20 tuổi Ngài thọ giới Tỳ kheo tại chùa Kim Huê, Sa Đéc. Đến năm 25 tuổi Ngài được bổ nhiệm về trụ trì tại chùa Phước Định, Chợ Lách. Năm 30 tuổi Ngài trụ trì chùa Viên Giác, Vĩnh Long. Năm 35 tuổi duyên lành đối với Phật giáo Nam Tông đã chín mùi, Ngài được du học tại Chùa Tháp Campuchia, thọ giới theo Phật giáo Nam Tông tại chùa Kùm Pung (Treyloko) ở Trà Pét.
07/04/2011(Xem: 13439)
Duy Thức Tam Thập Tụng (ba mươi bài tụng Duy Thức) là luận điển cơ bản của Tông Duy Thức. Tông Duy Thức dựa vào luận điển này mà thành lập. Lý do cần giảng ba mươi bài tụng là vì sự thành lập và truyền thừa Tông Duy Thức từ đây mà ra. Tông Duy Thức của Trung Quốc bắt đầu từ học phái Du Già Hạnh của Phật Giáo đại thừa Ấn Độ. Nhưng khi đã nói đến học phái Du Già Hạnh không thể không tìm hiểu học phái Trung Quán. Xin lần lượt trình bày như sau:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]