Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 7: Nước và Sóng

19/01/201122:22(Xem: 3329)
Chương 7: Nước và Sóng

Tủ sách Đạo Phật Ngày Nay
BƯỚC SEN
NỮ TU VÀ CƯ SĨ PHẬT GIÁO
CUỘC SỐNG, TÌNH YÊU VÀ THIỀN ĐỊNH
Walking On Lotus Flowers: Buddhist Women Living, Loving and Meditating
Tác Giả: Martine Batchelor - Biên Tập Viên: Gill Farrer-Halls
Việt Dịch: Diệu Ngộ -Mỹ Thanh & Diệu Liên-Lý Thu Linh
Nhà xuất bản Phương Đông 2010

PHẦN II: LUYỆN TÂM.


Chương 7: Nước và Sóng

Myongsong Sunim

Unmunsa là một tu viện lớn tại Hàn quốc, có khoảng 300 ni. Sự thành công của viện nhờ vào Ni trưởng và cũng là vị giảng sư chánh là Myongsong Sunim, một trong những người giảng pháp lỗi lạc nhất của Hàn quốc, được rất nhiều người kính trọng. Tu viện Unmunsa càng ngày càng lớn mạnh, có thêm nhiều phòng ốc; học viên thì hài lòng với không gian hoà hợp yên tĩnh. Ni sư Myongsong khoảng 60 tuổi, nhưng nhìn bà rất trẻ so với tuổi. Bà nhanh nhẹn nhưng cũng trầm tĩnh, nghiêm khắc mà thân thiện, cân bằng, mực thước, luôn lo cho phúc lạc của các ni sinh. Các ni sinh có cảm giác rằng Ni trưởng đối với họ rất tốt vì bà biết cách chăm sóc cho cây cỏ. Muốn trồng phong lan và cây cối đòi hỏi sự kiên nhẫn, vì mỗi thứ cây cần được chăm sóc khác nhau. Cũng vậy, dường như Ni trưởng biết phải ứng phó như thế nào với nhiều ni sinh khác nhau.

GIÁO LÝ CỦA ĐỨC PHẬT LÀ GÌ?

Chúng ta cần biết ý nghĩa thật sự về chữ Phật trước khi ta có thể thiền hay tụng niệm. Nếu thực hành một cách mù quáng, chúng ta có thể đi sai mục đích. Chúng ta cần phải tìm hiểu về giáo lý của đức Phật trước khi thắp hương, niệm Phật. Chúng ta phải biết kinh trước khi có thể tụng. Đó là lý do tại sao tôi học kinh điển.

Trước tiên, bạn phải có tâm chân thành khi học kinh. Ban đầu, khi đức Phật đi tu, Ngài cũng có lý do. Tại sao đức Phật lại đi tu? Cũng giống như, đi chợ để mua một món hàng nhất định nào đó, hoàn toàn khác với việc đi chợ chỉ vì theo một người bạn, hoặc đi mà không có mục đích gì cả.

Từ nhỏ, tôi đã đọc rất nhiều sách về tôn giáo: Phật giáo, Khổng giáo, Thiên Chúa giáo, kể cả sách của Socrates. Tôi muốn trở thành một đại bác học. Nhưng tôi đọc sách Phật là phần lớn và muốn đi theo con đường nầy. Nhìn người khác, tôi thường tự hỏi cuộc sống của họ có ý nghĩa gì, khi dường như họ sống một cuộc sống vô vị. Tôi quyết định xuất gia năm 23 tuổi.

TÂM BAN ĐẦU

Khi bắt đầu tu tập, ta nên tự hỏi: Động lực nào thúc đẩy ta? Mục đích của ta là gì? Chúng ta cần có một đường hướng căn bản vì thế ta nên bắt đầu học kinh Chobalshim (Tâm ban đầu).

Tâm rất quan trọng. Ta cần tạo ra một tâm thức như thế nào? Tâm giống cái gì? Cái mà ta gọi là tâm không hình dáng, không mùi vị. Ta không thể thấy tâm bằng mắt hoặc nghe bằng tai; vậy tâm là gì?

Điều quan trọng là tiếp tục không gián đoạn với động cơ ban đầu của ta. Tâm ban đầu, khoảng giữa và cuối đều phải giống nhau. Nếu tâm ban đầu thay đổi, thì bạn có thể có những hành động bất thiện hay là không chính đáng.

Tâm ban đầu cần được chuyển tiếp cho tâm theo sau; chúng là một. Trong kinh Chobalshimcó nói: ‘Với tâm ban đầu hành giả sẽ đạt được giác ngộ’. Tôi thường giảng về tâm nhất nguyên và làm thế nào để tâm ấy không hai.

SÓNG VÀ NƯỚC

Nếu bạn nghĩ thiền và học kinh điển là đối chọi nhau, thì bạn rất sai lầm. Hoàn toàn không phải vậy. Nếu tâm Phật là thiền thì lời Phật là giáo pháp. Giáo pháp của Phật không hiện hữu ngoài tâm Phật.

Giống như nước và sóng không khác nhau. Nếu nước chuyển động thì là có sóng, khi lắng dịu thì vẫn là nước. Sóng thì chuyển động và nước thì yên lắng, hai thứ không khác nhau. Cũng như vậy thiền và giáo pháp không khác.

Trong đời sống hàng ngày, không có gì không phải là thiền. Khi chúng ta biết ngồi quay mặt vào vách quán sát, ‘Cái gì là tâm?’, thì mọi thứ trong cuộc sống của chúng ta trở thành thiền. Từ lúc sáng thức dậy cho đến lúc nằm xuống ban đêm, chúng ta quán: ‘Cái gì đang nằm ở đây?’ Nếu suy tư sâu lắng ta thấy cái đang nằm ở đây có thể ví như một xác chết còn động đậy. Đây là một hình thức tu tập.

Giáo lý của Phật chỉ là sự diễn đạt của tâm Phật, qua văn tự và ngôn ngữ. Nhiều người không biết đó là một chứ không phải hai. Một thiền sinh có thể nói giáo lý là xa vời. Ngược lại kẻ chấp vào kinh điển có thể phỉ báng các thiền giả, cho rằng họ là những kẻ ngu si, nhưng những khái niệm này đều sai lầm.

ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY

Dầu lạy Phật hay là nhổ cỏ, chúng ta cũng phải làm những việc đó với tâm bình đẳng. Nếu chúng ta lạy Phật vì Phật ngồi trên cao, đó là tôn thờ hình tượng. Nếu lạy Phật, khi chúng ta nghĩ Phật ở ngoài chúng ta, đấy cũng là tôn thờ hình tượng. Nếu ta nghĩ tâm hiện tại của ta là Phật, chúng ta đảnh lễ chân tâm của mình với lòng thành kính, cố gắng không để tâm dẫn đến cống cao ngã mạn. Đó mới thật là ý nghĩa của sự đảnh lễ.

Trong cuộc sống hàng ngày, khi làm những nhiệm vụ lớn nhất hay nhỏ nhất, nếu chúng ta sống chân thật, kiểm soát việc mình làm, đấy chính là ý nghĩa của chữ Phật. Khi nhổ cỏ, hoặc quét sân, thưa hỏi người cao tuổi hoặc làm bất cứ chuyện gì, nếu ta làm những việc này một cách thành tâm thật lòng, thì đây là thiền.

Nếu chúng ta tinh tấn hành thiền nhưng rồi nổi giận hoặc nổi tham, thì còn tệ hơn chưa từng thực tập gì hết. Mục đích của thiền là sửa đổi các tư tưởng sân hận, si mê hay tham đắm. Chúng ta thiền là để trở về với tâm trong sạch, chân thật. Nếu chúng ta sống một cuộc sống hoang đàng, không lành mạnh, thì đó không phải là học tu hay hành thiền.

Tôi thích nói về pháp một cách cởi mở, giản đơn. Tôi dạy người cư sĩ biết sống lành mạnh trong cuộc sống hàng ngày. Như sen vươn lên từ vũng bùn nhơ, vẫn nở hoa tinh khiết, đẹp đẽ, người cư sĩ sống ở thế gian, vẫn có thể nở hoa như sen vậy. Nếu họ vun trồng một cách sống tốt đẹp với nhau, đó là họ đã thực hiện ý hướng của đức Phật.

NHƯ NƯỚC TRONG NGUỒN CHẢY RA

Ngay trước khi dạy bảo ai điều gì đó, chúng ta đã phải khiêm nhường. Nếu khuyên ai nên tạo công đức, chúng ta cần nhún nhường khi nói điều nầy. Trước hết chúng ta cần xét lại việc tạo công đức của chính bản thân. Trước khi bảo ai đừng nóng giận, tôi phải xét lại bản thân xem mình có khả năng chịu đựng, nhẫn nại mà không trở nên giận dữ.

Khi muốn nhắc nhở ai điều gì đó, ta không cần lớn tiếng. Trước tiên, ta phải nhìn lại mình; có thế ta mới có tự tin để dạy dỗ người khác. Chúng ta phải làm mọi việc với lòng tự tin. Nhưng thật khó tự tin, đúng không nào? Xét hành động của người thì dễ hơn của mình.

Nguồn cảm hứng phải phát khởi từ trong lòng. Nếu ta hy vọng tìm được điều đó từ bên ngoài, như thể nó rơi từ trên trời xuống, thì thật là sai lầm. Sự dũng mãnh cũng phải bắt nguồn từ bên trong, từ lòng tự tin của chính mình. Giống như nước từ trong nguồn chảy ra. Đâu có nơi nào khác mà ta có thể tìm được?

Riêng cá nhân tôi, sự cảm hứng không ích lợi gì. Tất cả các công trình đã được hoàn thành ở đây không phải do tôi làm, mà do từ tất cả năng lượng của nhiều người khác hợp lại. Không phải chỉ có sức mạnh của tôi mà chúng được hoàn thành. Vì nhiều vị ni quyết hợp sức cùng làm, tu viện Unmunsa mới được như thế đó. Công trình nầy không phải thành công nhờ tôi có sức mạnh phi thường gì. Mọi thành tựu đều do sức mạnh của từng ni sinh đang học tập tại đây; góp chung lại, nó được kết tinh thành.

Khi bạn chơi trò kéo dây, một nhóm người kéo dây, và vì mọi người cùng chung sức kéo, sợi dây chuyển động. Người đứng phía trước, hay bất cứ ai, không thể nói, ‘Tôi là người làm cho sợi dây chuyển động’. Không phải một người, mà là mọi người cùng nhau hoàn thành điều gì đó.

Người ta không thể truyền đạt ý của mình cho người khác. Ai đó có thể hỏi tôi: ‘Tại sao bà lại sống giữa núi vậy?’ Tôi có thể xử dụng câu trả lời của một vị thiền sư cho câu hỏi nầy. ‘Trên đỉnh núi, mây đến rồi đi’. Câu nầy rất hợp với tôi. Hạnh phúc, niềm vui của một người không thể giải thích được. Nếu tôi uống nước, thì chỉ có tôi mới biết được nước lạnh hay nóng, và nóng hay lạnh như thế nào. Vì lý do nầy, tôi không thể diển đạt được niềm cảm xúc mà tôi, một người nữ tu, đã trải qua.

NGUỒN GỐC CỦA GIỚI LUẬT

Các vị tăng ni cần phải chú tâm, đặt nặng vấn đề đạo đức hơn người tại gia. Xét kỹ, ta thấy, đối với các vị tỳ kheo có tất cả 250 giới, tỳ kheo ni có 338 giới, cư sĩ thì có năm hay 10 giới và cho sa di (sramanera) có 10 giới.

Tôi đã giảng nhiều về các giới luật của tỳ kheo ni. Theo tôi, nhìn lại nguồn gốc của giới luật, tôi cảm thấy không cần thiết phải tuân theo giới luật một cách quá chặt chẻ. Nguồn gốc của giới luật là để ‘bỏ điều ác, làm điều lành’. Vậy là đủ rồi. Nếu chúng ta luôn giữ nguồn gốc của giới luật, nó sẽ trở thánh bản tánh tự nhiên; tự động ta sẽ giữ các giới luật mà không cần được nhắc nhở: ‘Hãy làm việc nầy, đừng làm việc đó!’ Đừng làm việc ác và xem điều nầy như nền tảng để làm việc tốt! Đó chính là lời dạy của Đức Phật.

THIỀN ĐỊNH VÀ TRÍ TUỆ

Tâm chúng ta giống như sóng biển, lúc nào cũng nhấp nhô. Thiền giúp cho tâm giao động trở nên yên tịnh, để có thể tìm giữa bao thứ trong tâm ta cái ý tưởng vững chải, không xao động. Có lời dạy rằng: ‘Đừng chấp vào những cái bên ngoài mà bạn có thế thấy, có thể nghe. Hãy buông bỏ ngay lập tức.’

Trạng thái mà nội tâm tôi không bám víu, không nôn nao, không bận rộn, là trạng thái khi tâm tôi đã lắng dịu hoàn toàn, cũng như nước đang lắng đọng. Biển tâm, dòng nước sâu thẫm của tâm, khi đã lắng xuống một cách êm đềm, thì đấy là định.

Dầu bận rộn thế nào, bạn cũng cần phải cẩn trọng hơn, chú tâm hơn và điềm tĩnh hơn. Để giúp mình bình tĩnh hơn, hãy tự hỏi: ‘Tôi phải giải quyết việc nầy như thế nào?’ Nếu bạn có chánh định, thì dầu công việc của bạn có rắc rối, khó khăn thế nào, bạn cũng không bị áp lực, kiệt sức, thật ra bạn còn điềm tĩnh hơn. Nếu bạn có khả năng của chánh định, thì bạn có đủ sức mạnh để đối phó với mọi hoàn cảnh. Mắt của thiền giả có thể trụ vào một nơi cố định, không liếc ngang dọc mọi nơi. Đó chính là nhờ sự chú tâm.

Nếu dòng nước tâm lắng đọng êm đềm, thì tâm sẽ trở nên trong hơn và chói sáng sau mọi phản chiếu. Nhờ có định, mà trí tuệ phát sinh một cách tự nhiên, rõ ràng. Trí tuệ của Đức Phật không thể có được giống như cách chúng ta tạo ra của cải vật chất. Khi tâm thức lắng đọng, lập tức ánh sáng trí tuệ chói sáng.

Thiền sư Bojo có nói: ‘Không có điều ác trong tâm thức, đó là giới luật, không có xao động trong tâm, đó là định, không có si mê trong tâm, đó là trí tuệ.’

ĐÔI CÁNH CHIM

Giữa tăng và ni, không có sự khác biệt. Cả hai đều là đệ tử Phật. Tăng và Ni như đôi cánh của một con chim. Sứ mệnh của chúng ta trong đời là truyền bá lời dạy của Đức Phật.

TU VIỆN UNMUNSA

Ở Unmunsa, có rất nhiều ban, khoa. Có khoa giáo dục nhằm mục đích truyền bá Phật pháp. Có ban văn hóa phát hành tờ tin. Ban hoạt động xã hội tổ chức các gian hàng bán lấy tiền gửi đến các trại phong, nhà dưỡng lão và cô nhi viện. Các vị ni thăm viếng những nơi mà con người đang đau khổ như một hiện thân của lòng từ bi của đức Phật.

Công việc của chúng tôi là giảng dạy ý nghĩa của Đức Phật. Đây là các nguyên tắc chỉ đạo của trường đại học: chúng tôi phải phát đại nguyện bằng cách vun trồng các ý định của mình. Phải tinh tấn và dốc cả tâm trí vào tất cả những việc ta làm, không được dễ duôi. Không được trở lại với các thói quen cũ, và phải luôn tinh tấn. Chúng ta phải truyền bá những lời Phật dạy, vì Đức Phật bảo bánh xe pháp phải quay không ngừng.

Khi tôi mới đến đây, có chừng khoảng 70 vị ni. Trong 22 năm, nhiều việc đã đổi thay và số ni tăng lên rất nhiều. Hiện tại có khoảng 230 ni sinh. Nếu cộng luôn tất cả những người làm việc ở đây, con số có thể lên đến 257 người. Trong tương lai, tôi mong có những vị ni xuất chúng, có kiến thức cao hơn tôi sẽ xuất hiện và phát triển tu viện nầy hơn nữa.

Tôi bảo với tất cả ni sinh rằng họ phải trở nên những con người giác ngộ. Bằng những thành quả của chính mình, họ phải trở nên các nhà tư vấn thông thái. Đi đến đâu họ cũng không phải quỳ lụy, khúm núm. Tất cả chúng ta phải trở thành những phụ nữ xuất sắc trên con đường Đạo.

SỐNG HOÀ HỢP

Ban đầu, tôi không tha thiết muốn được trở thành Ni trưởng. Ý tôi định là nghiên cứu và giảng dạy kinh điển ở thủ đô. Tuy nhiên, ni chúng ở tu viện Unmunsa nhất quyết muốn tôi làm giảng sư cho họ và sau đó yêu cầu tôi làm Ni trưởng. Điều mà tôi thích khi làm Ni trưởng, là tôi có trọn quyền để làm cho các ni sinh thêm thoải mái. Nếu tôi chỉ là giảng sư, tôi phải xin phép Ni trưởng để mua bàn ghế, màn cửa, máy photocopy, vân vân, và có thể bị cấm. Nhưng vì tôi là Ni trưởng, tôi có thể cung cấp mọi thứ cần dùng cho các ni sinh.

Sống hoà hợp là mục đích của ni chúng nầy. Khi các ni có sự bất đồng ý kiến, họ cố gắng tìm hiểu quan điểm của người khác. Nếu nhìn vào gương, tôi thấy khuôn mặt của mình phản chiếu trong đó; sự phản chiếu đó không tốt hơn cũng không xấu hơn khuôn mặt của tôi, nó chỉ phản chiếu sự vật như nó thật là. Chúng ta không nên ôm thù hận đối với kẻ khác. Mọi lỗi lầm cần được xem xét lại bằng cách nhìn lại mình, và chúng ta phải kiên nhẫn, nhún nhường đối với nhau.

Chúng tôi chủ trương sống với lòng khiêm cung. Vì thế mặc dù có 250 ni sống chung với nhau, các vụ ấu đả hay tranh cãi không xảy ra thường xuyên. Dù sao, họ cũng phải học hành chăm chỉ, giữ gìn khuôn viên sạch sẽ, trồng hoa và rau quả, vì thế họ rất bận rộn, không có thời gian để bất hoà.

ĐẠI ÁI VÀ ĐẠI BI

Chữ từ bi trong tiếng Hàn được kết hợp một cách rất ý nghĩa, bao gồm từ ja, là ‘thương yêu’, và bi, nghĩa là ‘buồn, thương xót’. Chữ ‘từ bi’ nấy, cũng đi ghép với chữ ‘vĩ đại’. Chúng ta luôn nói về lòng đại từ bi.

Trong cuộc sống thế gian, người ta thương không trọn vẹn. Họ nghĩ, ‘Tôi mong mọi việc suông sẻ tốt đẹp cho con trai hay con gái tôi.’ Họ làm điều nầy kể cả khi cầu nguyện. Đối với sự từ bi nầy, bạn không thể thêm vào từ ‘đại’ phía trước.

Đại bi nghĩa là khi ai đó gặp nhiều đau khổ, chúng ta phải tốn nhiều công sức để giúp họ ra khỏi đó. Cũng có nghĩa là khi chúng sanh buồn, ta cũng buồn với họ. Khi họ khóc, ta cũng khóc. Đại ái là khi chúng sanh vui, ta cũng vui với họ. Chia sẻ buồn vui cùng nhau, đó mới là đại từ bi. Đại ái nghĩa là chúng ta ban tặng hạnh phúc lớn lao; đại bi nghĩa là chúng ta giúp người thoát khỏi khổ đau.

Ý nghĩa của từ bi thật tuyệt vời. Gandhi đã nói ông học được tình thương yêu đồng loại từ Thiên chúa giáo, nhưng ông học được tình thương yêu tất cả mọi loài chúng sanh nơi Phật giáo. Mọi vật đều được tôn trọng, kể cả con muỗi. Thật là một ý tưởng tuyệt vời, thương yêu tất cả chúng sanh một cách bình đẳng. Vì thế, để không vật gì bị giết hại, chúng tôi không ăn thịt. Nếu tôi lo cho sự sống của mình, thì tôi cũng phải lo cho mọi sự sống khác, do đó tôi không thể giết hại bất cứ một chúng sinh nào. Như thế lòng từ bi sẽ mãi tuôn tràn.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/04/2024(Xem: 356)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Xin thông báo tổng quát lịch Pháp thoại, khóa tu, Phật sự và hành hương của Thầy Tánh Tuệ năm 2024 Kính chia sẻ cùng chư Tôn đức, Pháp hữu và qúy Phật Tử lịch trình Hoằng Pháp, sinh hoạt tu học & Phật sự... với sự chia sẻ của Th Tánh Tụê cùng với sự hiện diện của chư Tôn đức tham dự trong tháng 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11- 2024
07/10/2023(Xem: 1322)
Thân đau yếu là để dạy cho Tâm biết Vô Thường!! - Thân thể đau yếu, bệnh tật là để tâm khởi lên sự chán ghét thế gian và có tác dụng làm sụp đổ các hy vọng . Tâm điên đảo, vọng tưởng chạy theo đủ thứ suy nghĩ là để giúp cho chúng ta thấy rõ cái đam mê, cái tham ái vào bản ngã.
31/07/2021(Xem: 5207)
Quyển sách nầy có 22 tác giả đóng góp bài vở, cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh. Sách do ba tổ chức tại Hoa Kỳ xuất bản. Đó là: Ananda Viet Foundation, Bodhi M.Foundation và Lotus Media xuất bản nhân lễ Phật Thành Đạo, Phật Lịch 2563, Dương Lịch 2019. Sách có độ dày 280 trang, khổ A5, in trên giấy thường, hình bìa trình bày rất trang nhã. Ban Biên tập gồm ba người. Đó là Đh Tâm Diệu, Đh Nguyên Giác và Đh Tâm Thường Định.
09/06/2021(Xem: 18000)
LUẬN VỀ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT - Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Thứ tự Kinh văn số 1648. Hán văn từ trang 399 đến trang 461 gồm có 12 quyển. - Ngài A La Hán Ưu Ba Đề Sa (Uptissa) còn gọi là Đại Quang tạo luận nầy và vào đời nhà Lương được Ngài Tam Tạng Tăng Già Bà La (Samghaphala) nước Phù Nam dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán. - Sa Môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi nhân lần nhập thất thứ ba tại đây. Bắt đầu dịch luận nầy vào ngày 10 tháng 12 năm 2005.
07/06/2021(Xem: 10220)
Trong mùa an cư kiết hạ năm nay (1984), sau khi đã viết xong quyển "Lễ Nhạc Phật Giáo“, tôi định dịch quyển luận "Đại Thừa Khởi Tín" từ Đại Tạng Kinh, cùng với quý Thầy khác, nhưng không thực hiện được ý định đó. Vì quý Thầy bận nhiều Phật sự phải đi xa. Do đó, tôi đình chỉ việc dịch trên. Sở dĩ như thế, vì tôi nghĩ, tài mình còn non, sức còn kém; đem ý thô sơ, tâm vụng dịch lời kinh Phật chỉ một mình làm sao tránh được những lỗi lầm, thiếu sót. Nếu có nhiều Thầy dịch cùng một lúc, văn ý trong sáng mà lại bổ khuyết cho nhau chỗ thừa, nơi thiếu thì hay hơn; thôi đành phải chờ dịp khác vậy.
26/11/2020(Xem: 4743)
Từ hơn chục năm qua tôi vẫn tận dụng từng giờ trong ngày còn lại để nghe pháp, học pháp và chiêm nghiệm về những lời dạy của Cổ nhân hay Giảng Sư sau thời gian cần phải có và cần thiết cho nhu cầu trong đời sống con người.
04/07/2020(Xem: 5267)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau. Pháp thực hành ban đầu có khác, nhưng tất cả đều nhắm đến mục tiêu cuối cùng. Đó là giúp cho mỗi hành giả thân tâm được thanh tịnh. Nhờ tâm thanh tịnh nên dễ dàng phát sanh trí huệ, đi đến chỗ hoàn toàn giải thoát giác ngộ. Vì thế, Giáo pháp của Đức Phật nhìn chung có nhiều pháp môn, nhưng xem xét kỷ lại thì không ra ngoài ba yếu tố căn bản là “Giới, Định, Huệ”. Giới-Định-Huệ là ba môn học của Phật giáo, trong kinh gọi là “tam vô lậu học” tức ba môn học giúp hành giả vượt thoát sự trói buộc của mọi phiền não, lậu hoặc, đạt được trạng thái tâm thuần tịnh, trong sáng, định tỉnh, tự do, tự tại… Từ đó đưa đến giác ngộ, chứng nhập quả vị giải thoát hoàn toàn.
02/05/2020(Xem: 5363)
Chỉ khi nào một tổ chức xã hội mà các hội đồng thường xuyên tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc trong niệm đoàn kết, gặp gỡ trong sự hài hòa và tôn trọng lẫn nhau, họ sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm. Khi nào một xã hội biết gìn giữ và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp bởi dân phong quốc tục, truyền thống lâu đời của trí tuệ và tôn vinh những bậc trưởng lão, họ có thể sẽ thịnh vượng và không suy tàn.
17/04/2020(Xem: 5081)
Cuộc họp ngắn của nhóm chuyên gia y tế vào ngày 27/3/2020, bắt đầu với một chiếc máy ảnh lung linh và thô sơ. Vào ngày 31/3/2020, Tiến sĩ bác sĩ Phật tử James Maskalyk mở đầu bằng một bản tóm tắt nhanh về tình hình hiện tại của Covid-19: đã lây lan ở khắp mọi nơi trên thế giới.
13/04/2020(Xem: 5221)
Quý bạn cảm thấy mình có lo lắng, thậm chí chán nản hay cô đơn trong mối quan hệ của mình phải không? Tất cả chúng ta đều trải qua những thử thách và xung đột trong cuộc hôn nhân của mình lúc này hay lúc khác. Như Giáo sư Tiến sĩ Phật tử John Gottman giải thích, việc liên tục xử lý các vấn đề đang diễn ra có thể dẫn đến “tình trạng bế tắc” (gridlock) không thoải mái và cảm giác rằng quý bạn đang quay cuồng như bánh xe và không tới đâu. Chìa khóa để cởi mở “tình trạng bế tắc” là hiểu hơn về những gì đối tác của quý bạn và cảm nhận – nhưng làm thế nào?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567