Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

17 Giải Thoát Thù Thắng

28/11/201017:26(Xem: 9989)
17 Giải Thoát Thù Thắng

 

PHẬT LỊCH 2513
Phật Học Tùng Thư Mục C cuốn thứ 15
LUẬN ĐẠI TRƯỢNG PHU
TÁC GIẢ: ĐỀ BÀ LA BỒ TÁT
DỊCH GIẢ: TỲ KHEO TRÍ QUANG
CHỨNG MINH: HÒA THƯỢNG THÍCH TỊNH KHIẾT.

XVII. GIẢI THOÁT THÙ THẮNG

Có nhiều phương pháp nữa, có thể lợi ích chúng sinh thực hành Phật sự, như định và tuệ. Do những phương pháp ấy, Bồ tát không muốn tự giải thoát. Hạnh đầu-đà đập rũ tất cả tội ác như rũ áo kia, mà vì chúng sinh, những bậc chân thực cứu vớt vẫn không ham thích.

Do định và tuệ, từ bi tự phát sinh. Từ bi phát sinh thì thấy rõ và thương xót đau khổ của muôn loài. Cho nên các vị Bồ tát, những người chân thật cứu giúp chúng sinh, không khi nào bỏ những thứ ấy.

Hải trào không quá độ; người từ bi dù vì cứu một người đi nữa cũng không bao giờ rời khỏi sinh tử.

Nên người từ bi vì chúng sinh mà ở sinh tử. Ba thứ bố thí lúc nào cũng như gặp trường hợp. Không phải vì mình thực hành, mà thực hành vì người. Do đó, ngày đêm lăn trong sinh tử mà không phải ở sinh tử: hoan hỷ an vui như vui niết bàn.

Bồ tát luôn luôn vì chúng sinh hành động lợi ích, nếm khí vị hoan hỷ của trí tuệ. Sự hoan hỷ đó hoan hỷ trong chiêm bao mà còn hơn an lạc tự giải thoát.

Bồ tát nếm được khí vị của sự hoan hỷ vì chúng sinh gây an lạc. Người khác không nếm được khí vị ấy nên ưa thích sự tự giải thoát. Trí giả khi giải thoát biết cái khí vị của lợi tha thì chắc chắn trở lại lợi ích chúng sinh.

Người sợ sinh tử, vì lợi ích tự kỷ mà cầu tự giải thoát cho là cực lạc, thì sự an lạc cùng cực của người ấy không bằng sự hoan hỷ của Bồ tát lúc thọ thân thể, vì sự thọ thân ấy là để lợi ích cho chúng sinh

Bồ tát nghĩ: nếu chỉ mình ta khổ thì nên tự niết bàn thật, nhưng tất cả chúng sinh đều khổ cả sao ta bỏ họ mà tự niết bàn. Cho nên người chỉ thấy cái khổ của mình mới niết bàn, còn người từ bi thấy chúng sinh đau khổ đều ở trong tâm mình, thì bao giờ chịu bỏ họ mà tự giải thoát.

Ở Bồ tát, lợi tha là niết bàn, tự cứu là sinh tử.

Sự hoan hỷ của người đối với chúng sinh lòng từ bi rất bình đẳng, vì chúng sinh làm lợi ích, thì sự hoan hỷ ấy tức là niết bàn; niết bàn mà Phật-đà rất ngợi khen. Nếu sự an lạc của giải thoát như sự hoan lạc của lợi tha thì trí giả mới ưa thích. Nên cho vui cho người mà không kể công, đó mới là giải thoát thù thắng.

Người từ bi làm lợi ích cho chúng sinh rồi không hy vọng sự đền trả: như vậy là giải thoát, ngược lại là sinh tử.

Vì mình cầu vui là khổ não; bỏ vui của mình, vì người cầu vui là niết bàn.

Kẻ phàm phu cho phá khổ của mình gọi là giải thoát, người từ bi thấy trừ khổ cho người mới là giải thoát thù thắng. Trừ khổ của người thì người mình đều an lạc, thế nên có ai là người trí tuệ mà bỏ cái giải thoát an lạc cả hai, đi lấy an lạc giải thoát một mình.

Có kẻ nói: trí tuệ thì giải thoát. Bồ tát suy nghĩ: ta không tin người nói câu ấy, vì có người trí tuệ nào mà bỏ lợi người tự giải thoát.

Cho nên người tự lợi lợi tha thì coi cái vui trong hữu lậu vẫn hơn cái vui tự giải thoát. Bồ tát vì chúng sinh đau khổ, thắng hơn cái vui vì tự kỷ tự giải thoát.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/10/2011(Xem: 5901)
Chúng ta sống, quay cuồng trong cuộc đời, cuối đời còn muốn kéo dài tuổi thọ. Nhưng có khi nào chúng ta dừng lại , suy nghĩ, bình tỉnh lại để tự hỏi mình sống để làm gì ? Ý nghĩa cuộc đời là gì ?
01/10/2011(Xem: 3019)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
03/09/2011(Xem: 5944)
Không ngờ tôi đã tham dự khóa Giáo Lý Phật Pháp Âu Châu kỳ thứ 23, bởi vì đầu gối của tôi vẫn còn đau sau khi giải phẫu nhưng tôi đã quyết đi, không hề nản chí. Và đúng như lời Phật đã dạy: „Mọi chuyện đều khởi đi từ duyên, duyên còn còn hiện hữu, duyên tan mọi sự trở về với trống không“. Tôi tưởng là tôi đã đến sớm trước một ngày nhưng từ 18.7 đã có người đến rồi nên đến nơi đã thấy tấp nập người ra vào và tôi đã nhập vào dòng chảy xôn xao mà vô cùng ngọt ngào đó!
08/08/2011(Xem: 16768)
Phát bồ đề tâm văn là một bài văn rất ngắn, nhưng nội dung của bài văn này, bất cứ người học Phật nào cũng phải nằm lòng, không những vậy mà phải đời đời khắc cốt ghi tâm. Chúng tôi trong những ngày đầu tiên chập chững bước đi trên con đường đạo, may mắn đã đọc được bài văn này. Nếu không có bài văn này có lẽ chúng tôi đã bị dòng thác cuộc đời kéo phăng đi mất. Vậy bài văn này nội dụng nói gì? Văn chỉ cho ta thế nào là tâm phàm phu thế nào là tâm Phật.
23/03/2011(Xem: 4942)
“Hãy đến để thấy” của Ni sư Aya Khema là một chuyên khảo về con đường hạnh phúc của Phật giáo. Tác phẩm này thực chất là một tuyển tập gồm 12 bài nghiên cứu của tác giả được công bố đây đó trong suốt quảng đường hành đạo, được xuất bản lần đầu vào năm 1994.
15/03/2011(Xem: 2718)
Bài pháp có tên là “Phát Bồ-đề Tâm” hay Phát tâm Bồ-đề, tức là tâm giác ngộ. Tất cả quý vị ở đây đều là Phật tử, là con bậc giác ngộ, mình phải học theo bậc giác ngộ. Học phát tâm Bồ-đề là học giác ngộ để xứng đáng với tên Phật tử của mình.
16/02/2011(Xem: 8500)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
11/02/2011(Xem: 5055)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổ và cách sống an vui hạnh phúc...
10/02/2011(Xem: 5452)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
20/01/2011(Xem: 8235)
Nguyên tác: Mindfulness with Breathing - Unveiling the secrets of life (A manual for serious beginners). Giác niệm về hơi thở - Phát hiện các bí ẩn của đời sống (Thủ bản cho các bạn Phật tử mới quyết tâm tu học). Nguyên tác Thái ngữ: Bhikkhu Buddhadasa (1986). Bản dịch Anh ngữ: Bhikkhu Santikaro (1988). Bản dịch Việt ngữ: Cư sĩ Thiện Nhựt (2004).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]