Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hành Trình Bồ Tát Đạo: 500 Danh Hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm

22/10/202407:33(Xem: 672)
Hành Trình Bồ Tát Đạo: 500 Danh Hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm

 quan am-qd



Hành Trình Bồ Tát Đạo:

500 DANH HIỆU BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM




Xuất xứ:
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm là tuyển tập 500 Danh Hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Mỗi danh hiệu tán dương một bản nguyện, hạnh tu, công đức, pháp môn, ứng thân, phương tiện, lời dạy, cảm ứng, xưng tán, hoặc oai lực của Bồ Tát, viết thành một câu khá dài. Hơn một nửa danh hiệu trích dẫn từ Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, còn lại dẫn từ nhiều Kinh khác. Do dẫn nhiều bản Kinh theo thứ tự trước sau nên có những câu tương tự, trong đó 2 câu “Thiên nhãn Chiếu kiến” và “Thiên thủ Hộ trì” lập lại 2 lần (câu 76-77).

Tác giả và thời gian. Theo ý kiến của nhiều Tôn đức, Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm do một bậc Cao tăng Việt Nam (Ẩn danh) biên soạn vì không có trong Đại Tạng Kinh. Bản kinh nguyên gốc bằng chữ Hán đã được nhiều Tôn đức dịch ra tiếng Việt. Theo ấn bản năm 2015 do nhà nghiên cứu Quảng Minh dịch, Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm đã sớm có từ đời nhà Trần, căn cứ vào câu “Linh cảm Ngũ Bách Danh” trong nghi thức cúng âm linh cô hồn Thủy Lục Chư Khoa thịnh hành từ thời nhà Trần, thế kỷ thứ XIII. Bản gỗ khắc in xưa nhất còn được lưu trữ là vào năm Thành Thái Mậu Tuất, Mùa Hạ 1898, do chùa Xiển Pháp, thôn An Trạch, tỉnh Hà Nội (nay là Tp. Hà Nội) thực hiện. Bản in này ghi là “trùng khắc”, tức là khắc lại từ một bản in trước.
Về hình thức. Bố cục Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm có 3 phần: mở đầu, giảng giải và kết luận.

Phần mở đầu (Câu 1-7). Trước sự Chứng minh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Bồ Tát Quán Thế Âm thưa trình nhân duyên được Tâm chú Đại Bi, đại nguyện và hạnh tu của Ngài.

Phần giảng giải (Câu 8-497). Dẫn chứng công hạnh của Bồ Tát qua nhiều bản Kinh: Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, Chú Ma Ha Ba Đầu Ma Chiên Đàn Ma Ni Tâm Luân, Kinh Bất Không Quyến Sách, Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Bí Mật Tạng Như Ý Luân Đà La Ni Thần Chú, Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Như Ý Ma Ni Đà La Ni, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoa…

Phần kết luận (Câu 498-500). Hành giả nguyện ủng hộ Phật pháp hưng thịnh lâu dài bằng cách thực hành lời Phật dạy.

Về nội dung. 500 Danh Hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm chính là hành trình Bồ Tát đạo, sắp xếp từ dễ đến khó, từ cụ thể đến thâm sâu, từ tướng mà vào tánh. Trước là kể lại cách tu tập, nguyện lực và hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm (78 câu). Thứ tự tiếp theo là công năng của Bồ Tát trong việc chữa lành bệnh tật (50 câu), trừ tai nạn, trừ chết oan và ác nghiệp (38 câu), đáp ứng lòng chúng sanh mong cầu (27 câu). Đây là các trường hợp cấp bách, cần đáp ứng ngay.

Sau khi giúp chúng sanh khỏi các nạn khổ bức bách, Bồ Tát Quán Thế Âm tùy duyên hướng dẫn Phật pháp cho họ, đặc biệt là phương thuốc Thần chú Đại Bi (139 câu). Ngoài ra, Ngài còn khích lệ Thiên long Bát bộ làm việc thiện bằng cách trợ giúp cho người tu tập (57 câu). Như vậy, tha lực của Bồ Tát là sự kiện hiển nhiên, như người Mẹ hiền chăm sóc đàn con thơ dại.

Tuy nhiên, cốt lõi của 500 Danh Hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm chính là hướng dẫn mỗi người nhận ra Phật tánh sẵn có nơi bản thân (18 câu, từ câu 430-447), đúng như lời dạy trong Kinh Pháp Hoa: “Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến”. Phật tri kiến, Chân tâm, Trí tuệ Bát nhã v.v… là một cách nói khác của Phật tánh. Một khi hành giả hiện rõ Phật tánh thì lục căn biết như thật, thong dong vào đời cứu độ chúng sanh như 32 ứng thân của Bồ Tát trong phẩm Phổ Môn (93 câu). Tổng cộng 500 câu.

Duyên khởi 500 Danh Hiệu. Mở đầu kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, Ngài A Nan thuật lại: Một thời Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni (câu 1) giáo hóa tại đạo tràng Bảo Trang Nghiêm, trong cung điện của Bồ Tát Quán Thế Âm tại núi Phổ Đà, Bồ Tát Quán Thế Âm đã xin Đức Phật Thích Ca cho phép Ngài kể lại nhân duyên được chú Đại Bi và hạnh tu của Ngài (câu 2). Lời thỉnh cầu của Bồ Tát được Đức Phật hoan hỷ chấp thuận, chứng minh và giảng giải thêm.
Từ vô lượng kiếp lâu xa về trước, Bồ Tát Quán Thế Âm đã thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai (câu 7). Vì nguyện lực cứu độ chúng sanh nên Ngài giáng tích làm Bồ Tát (câu 3). Vào thời Phật Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ (câu 5), Bồ Tát được nghe đức Phật tuyên thuyết Đại Bi Tâm chú vi diệu đến mức, Ngài từ sơ quả là Hoan Hỷ địa mà tiến thẳng đến bậc thứ tám là Bất Động địa. Bấy giờ Bồ Tát vô cùng hoan hỷ, dũng mãnh phát lời thệ: “Nếu trong đời vị lai, con có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh với thần chú này, thì xin khiến cho thân con liền sanh ra ngàn tay ngàn mắt”. Khi Ngài phát thệ rồi thì nơi thân liền hiện ra một ngàn cánh tay và một ngàn con mắt (câu 6).

Ứng hiện nhiều hình tướng. Tùy theo căn cơ của mỗi loài mà Bồ Tát tùy thuận hiện ra các hình tướng thích hợp để hóa độ. Có khi Bồ Tát hiện ra thân 11 mặt, 12 mặt, thân đầu Ngựa, thân Bồ Tát Chánh Thú, thân Tỳ Câu Chi, thân đắp Y bằng lá sen, thân Như Ý Luân. Có khi Ngài hiện ra thân 84.000 tay, 42 tay, 18 tay, 12 tay, 8 tay, 4 tay, đặc biệt là thân ngàn tay ngàn mắt, trong mỗi bàn tay có một con mắt.

Trừ bệnh tật. Bồ Tát Quán Thế Âm hiện thân Lương Y, có thể trừ rất nhiều loại bệnh hoặc các chứng đau nhức. Chẳng hạn các bệnh từ đầu, não, mặt, mắt, tai, răng, cổ họng, tay chân, lưng, các bệnh phong thấp, kiết lỵ, trĩ, phù thũng, hoặc ngay cả các bệnh nan y như đau tim, bướu trong bụng, phong cùi, ung thư, viêm gan. Ngài không những giúp chữa các bệnh về thân, mà còn các bệnh về tâm như nỗi phiền muộn, oan gia đối đầu, ác quỷ làm hại.
Trừ tai nạn, chết oan và ác nghiệp. Bồ Tát Quán Thế Âm có thể giúp giải trừ 15 loại chết oan trái, hay còn gọi là bất đắc kỳ tử, oan gia đối đầu như đói khát, loạn lạc; giam cầm, đánh đập; thù oán; tử trận; thú dữ cắn xé; rắn, rết cắn; lửa cháy hay chết đuối; nhiễm độc thức ăn nước uống; trùng độc làm hại; điên cuồng; cây gãy rơi trúng hoặc sa xuống hầm hố; trấn ếm, trù ẻo; tà thần, ác quỷ làm hại; ác bệnh; tự tử. Bồ Tát Quán Thế Âm luôn luôn khuyến tấn người đời sám hối các điều dữ đã tạo ra và nguyện không tái phạm, nhờ vậy mà có thể thoát khỏi ba đường ác địa ngục, quỷ đói, súc sanh. Và, chuyển hóa các nghiệp oan gia kiếp đạo, tam tai, cửu hoạnh, ác mộng biến quái trở thành niệm lành (câu 173-188).

Đáp ứng lòng mong cầu. Sở dĩ người đời sùng kính Bồ Tát Quán Thế Âm vì vô số người chứng thực rằng chí thành cầu nguyện Ngài thì được tai qua nạn khỏi, tùy tâm mãn nguyện, dù ở đâu, bất cứ lúc nào. Từ quang Bồ Tát Quán Thế Âm bảo hộ cho đất nước được an ninh, chính trị ổn định, ngăn ngừa chiến tranh, loạn lạc, nhân dân yên ổn, mưa thuận gió hòa, đẩy lùi dịch bệnh và những điều nguy hiểm, hoa màu tươi tốt, thực phẩm sung túc, kinh tế thịnh vượng. Khắp nơi trên thế giới và vũ trụ đều thấm nhuần cam lồ nước tịnh.

Diễn nói chú Đại Bi. Bồ Tát Quán Thế Âm chứng quả nhờ chú Đại Bi nên trải qua vô lượng kiếp, Ngài luôn giảng nói chú Đại Bi và thường trì niệm không bao giờ bỏ sót (câu 374). Chú Đại Bi có công năng giúp người tụng trì tiêu trừ nghiệp chướng, khỏi sa vào các nẻo đường xấu ác, trừ các loại độc, các tội nặng, được người khác kính mến, tài lộc dồi dào.

Chú Đại Bi có 10 Tâm vi diệu là Tâm Đại Từ bi, Tâm Bình đẳng, Tâm Vô Vi, Tâm Không dính mắc, Tâm Không quán, Tâm Cung kính, Tâm Khiêm nhường, Tâm Không rối loạn, Tâm Vô kiến thủ, Tâm Thệ độ tất cả chúng sanh. Hành giả tụng trì chú Đại Bi là đang gieo vào tàng thức 12 hạt giống vi diệu: Cụ Phật thân, Quang Minh thân, Từ bi, Diệu pháp, Thiền định, Hư không, Vô úy, Diệu ngữ, Thường trụ, Giải thoát, Dược vương, Thần thông. 500 Danh Hiệu dành đến 40 câu về ấn thủ nhãn (câu 313-352). Ấn thủ là bắt ấn bằng tay để giúp; nhãn là dùng trí tuệ biết rõ từng hoàn cảnh.

Cách tụng trì chú Đại Bi. Người tụng trì chú Đại Bi trước tiên phải khởi lòng bình đẳng, phát tâm Bồ đề rộng lớn thề độ tất cả muôn loài, và y theo Ngài mà phát nguyện: “Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Nguyện Con” mau biết tất cả pháp, mau được mắt trí tuệ, mau độ các chúng sanh, mau được phương tiện khéo, mau lên thuyền Bát Nhã, mau được qua biển khổ, mau được giới định đạo, mau lên non Niết Bàn, mau về nhà Vô Vi, mau đồng thân Pháp tánh (câu 204-213). Mỗi ngày tụng 5 biến chú Đại Bi, miệng tụng rành rẽ, tiếng tăm liên tiếp không gián đoạn, thân và tâm hợp nhất, không nghĩ chi khác.

Nhờ chuyên tâm tụng trì chú Đại Bi mà tâm hành giả lắng yên, chuyển hóa dần các tập khí xấu ác, thoát tội ngũ nghịch, trừ tham sân si, được phú quý, sống lâu, thân tướng trang nghiêm, làm gì cũng có kết quả, tăng trưởng các thiện nghiệp. Cùng với tiến trình lắng yên thân khẩu ý nghiệp, hành giả đồng thời cũng bồi đắp chí nguyện Đại thừa, thực hành Lục độ vạn hạnh, thành tựu tứ quả Thanh văn, quả vị Thập địa. Được tận mắt thấy hiệu lực ngàn mắt chiếu soi, ngàn tay nâng đỡ của Bồ Tát Quán Thế Âm, khai mở tâm Bồ đề, thành tựu 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, cho đến ngày rốt ráo thành Phật (câu 301).


Khuyến thiện Thiên long Bát bộ. Nhiều khi Bồ Tát Quán Thế Âm cũng hiện ra các thân tướng uy vũ để trừ bạo an dân, vô hiệu hóa các ác qủy thần, bùa yểm hoặc hàng phục các hạng chúng sanh cang cường, thiên ma, tà thần. Ngài hàng phục không bằng sát khí sân hận ngập trời mà bằng tâm đức từ bi, khoan hòa, hỷ xả. Chính “tâm từ bi kiên cố, tướng tự tại đoan nghiêm” của Ngài đã cảm hóa các hàng Thiên long Bát bộ quay về đường lành.
Đầy đủ nguyện lực. Bồ Tát Quán Thế Âm thành tựu công hạnh ban vui cứu khổ cho tất cả chúng sanh từ vô lượng kiếp, nhưng chúng sanh không nhận ra Ngài. Ngài căn cứ vào lẽ chơn thật của mọi sự, mọi vật trong vũ trụ mà hóa độ nên lời nói, việc làm nào cũng phù hợp chân lý, không để suy thoái các hạt giống tốt. Ngài có đủ lục thông về mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, oai thần không thể nghĩ bàn. Dù ứng hiện nhiều hình tướng và sống thực trong mọi hoàn cảnh khác nhau, nhưng lúc nào Bồ Tát vẫn ở yên trong đại định nên tự tại vô ngại, hoặc ứng xử đúng với chân lý, được ánh sáng của tất cả chư Phật gia hộ.

Trở về Chân tâm. Từ lễ bái hình tượng Chư Phật, Chư Bồ Tát bên ngoài thân, người tu tập ngày càng có dịp quay về với Phật tánh thường trụ nơi tự thân. Thành thử hành giả kính lễ Bồ Tát Quán Thế Âm cũng như đang kính lễ Phật tánh nơi chính bản thân mình. Đó là ý nghĩa của 6 câu danh hiệu: “Kính Lạy Bồ Tát Quán Thế Âm”, Con Kính Lạy Phật Tánh Nơi Con Cũng Như Kính Lạy Ngài. Con trở về Phật Tánh nơi con là trở về Ngài. Con nhận ra Phật tánh nơi con đồng Pháp thân Ngài. Con nhớ Phật tánh nơi con là nhớ Ngài. Con kính thờ Phật tánh nơi con như kính thờ Ngài. Con cúng dường Phật tánh nơi con như cúng dường Ngài.

Bồ Tát đạo là con đường tu hành Lục độ, muôn hạnh tự lợi, lợi tha của Bồ Tát để thành tựu Phật quả. Lời nguyện phát Bồ đề tâm, hành Bồ Tát nguyện thật vô cùng hùng vĩ: “Nay con phát tâm không vì tự cầu phước báo nhân thiên, Thanh văn, Duyên giác, cho đến các bậc Bồ Tát quyền thừa; chỉ y theo tối thượng thừa mà pháp tâm Bồ đề. Nguyện cùng chúng sanh trong pháp giới, một thời đồng chứng đạo quả Vô thượng Bồ đề”. Đó chính là thệ nguyện của Tôn giả A Nan:

“Đời đau khổ con nguyền vào trước
Cứu chúng sanh là báo Phật thâm ân
Dù gian lao chí cả không sờn
Cầu Đại Giác từ bi gia hộ
Nếu còn một chúng sanh chưa hết khổ
Cảnh Niết Bàn con đâu dám tự an” (Tựa chú Lăng Nghiêm).
Hay lời nguyện của Bồ Tát Địa Tạng:
“Địa ngục chưa trống nguyện chẳng thành Phật
Độ hết chúng sanh mới chứng Bồ đề” (Kinh Địa Tạng).

Bồ Tát Quán Thế Âm: “Con nguyện không thành Chánh giác khi tất cả chúng sanh chưa thành” (Tạng Thư Sống Chết).



Khi dịch Kinh Phật Dạy Cách Phát Tâm Bồ Đề, Cố Ân sư Thích Đỗng Tuyên viết lời Bạt thật thống thiết: “Bồ tát đạo là con đường không vướng mắc vào không gian, thời gian, nên Bồ Tát luôn lặn lội trong tam đồ lục đạo, ung dung lui tới trong ba cõi. Không chỗ nào mà không tới, không chúng sanh nào bị từ bỏ. Quả thật không gian là chân trời bao la bát ngát vô hạn; trải qua vô số a tăng kỳ kiếp tưởng chừng chỉ trong một sát na… Thực hành Bồ Tát đạo thật đầy chông gai và thử thách. Càng cực khổ, càng nguy hiểm, càng khó khăn bao nhiêu thì tâm Bồ Tát càng yêu thương, càng hy sinh, càng tinh tấn… thì càng đến gần Giác ngộ, Giải thoát”.

Trong lời Tựa bản dịch Bồ Tát Hạnh, Hòa thượng Thích Trí Siêu khuyến tấn: “Đối với các Phật tử Đại thừa thì mục đích chính của tu hành là phải cầu thành Phật. Chư A La Hán, chư Bích Chi Phật, chư Tổ Thiền đều đã đắc quả giác ngộ giải thoát, nhưng các Ngài vẫn chưa phải là Phật. Nhưng tại sao lại phải cầu thành Phật? Được giác ngộ giải thoát chưa đủ sao?

Chưa đủ! Đủ làm sao được đối với người đã hiểu, đã thấy tất cả chúng sanh chính là mình, mình chẳng khác với chúng sanh; cái khổ của chúng sanh chính là cái khổ của mình và sự giải thoát của chúng sanh cũng là sự giải thoát của mình. Nếu chưa hiểu được vậy thì ít nhất cũng phải suy nghĩ, từ vô thỉ đến nay, trôi lăn trong sanh tử luân hồi, tất cả chúng sanh đều đã ít nhất một lần làm cha mẹ ta, đã nuôi nấng, thương yêu, chăm sóc ta chẳng quản khó nhọc, nhiều khi còn phải hy sinh tánh mạng vì ta. Như thế, ta nỡ lòng nào cầu giác ngộ giải thoát một mình”?

Kết luận

Danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm tượng trưng cho Trí tuệ (Quán) và Từ bi (Thế Âm), những tánh đức của một vị Phật. 500 Danh Hiệu cho thấy cách tu tập rất Việt Nam là Thiền, Tịnh, Mật đồng tu. Mật là trì tụng Tâm chú Đại Bi; Tịnh là niệm danh hiệu Phật A Di Đà cầu vãng sanh Tây phương Tịnh Độ. Còn Thiền ở đây có hai phần là Chỉ và Quán. Chỉ là tập trung vào chú Đại Bi, không nghĩ chi khác (câu 376), đây chính là Định có tầm có tứ. Với tâm lắng yên, hành giả có thể nhìn sâu, nhìn lâu, nhìn kỹ vào lòng sự vật để hiểu đúng, gọi là Quán.

Sau 500 Danh Hiệu Bồ Tát có phần sám hối ngắn gọn mà thực tế, thiết tha, cảm ứng, chuyển hóa lòng người. Phần thực hành mỗi lần 10 câu, hoặc nhiều câu hơn, hoặc mỗi chữ một lạy, tùy theo sức khỏe và thời gian mỗi người. Lạy chậm rãi, chắp tay đưa lên thì hít vào, cúi xuống thì thở ra, khi trán chạm đất thì thong thả thở vào, thở ra một vài hơi nhẹ nhàng, không nghĩ gì hết, rồi đứng dậy thì hít vào, thở ra. Như vậy, thực hành lễ lạy vừa dẻo dai cơ thể, trừ nhiều bệnh, vừa sám hối ba nghiệp thân, miệng, ý, dần dần đạt đến thân và tâm là một. Vậy là nương tướng mà vào tánh, tâm với cảnh không hai, người lạy và đối tượng lạy đều đồng một thể rỗng lặng, Phật với chúng sanh không khác.

Trong khi cẩn trọng tìm hiểu, đối chiếu kinh sách để việc chuyển ngữ sang tiếng Việt và tiếng Anh khỏi sai lạc ý Phật, ý Tổ, con thường xuyên đảnh lễ 500 Danh Hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, mỗi chữ một lạy, nên tâm thường được lặng yên mà biết rõ. Và, nhận ra tha lực của Ngài là những trường hợp “cấp cứu”; qua cơn khổ nạn, mỗi người nên “Tự mình thắp đuốc lên mà


đi, thắp lên với Chánh Pháp”. Chúng sanh vô số lượng, khổ nạn vô cùng tận, cho nên Bồ Tát vận dụng Pháp thí để dạy dỗ, khéo léo hướng dẫn người đời thực hành Lời Phật dạy, lợi mình, lợi người, tự giác, giác tha. Rồi Bồ Tát khuyến khích họ chia sẻ kinh nghiệm quý báu đó cho người lân cận.



Bo Tat Quang Duc

Trong đời sống hàng ngày, hình ảnh Chư tôn Thiền đức Tăng Ni và Phật tử thường xuyên có mặt bên cạnh các mảnh đời bất hạnh, hoạn nạn, nghèo đói, bệnh tật, già yếu, tử vong để xoa dịu nỗi khổ niềm đau chính là cánh tay nối dài của Bồ Tát. Và, hình ảnh Hòa thượng Thích Quảng Đức vị Pháp thiêu thân năm 1963 tại Việt Nam thật vô cùng bi tráng, linh thiêng: Ngài ngồi trong biển lửa mà gương mặt thanh thản, tự tại, an nhiên, thế ngồi rất thẳng như vào thiền định chính là hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm giữa cõi đời đảo điên, thống khổ. Trong không gian, thời gian bất tận, lời ca ngợi Ngài vẫn mãi hoài vang vọng:

“Chỗ người ngồi: Một thiên thu tuyệt tác
Trong vô hình sáng chói nét Từ bi“ (Vũ Hoàng Chương).

Nam mô Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Đại Từ Đại Bi Linh Cảm Ứng

Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.
Cúng dường Vía Bồ Tát Quán Thế Âm Xuất Gia,
19 tháng 9 năm Giáp Thìn (2024)
Tỳ kheo Thích Thông Đạo cẩn bạch





pdf icon-2


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/03/2022(Xem: 3454)
Kính lạy Đức Bồ Tát biểu tượng cho đại hạnh thực tiễn Hình thành nội hàm tín ngưỡng tinh thần BI, TRÍ, NGUYỆN, HẠNH của Phật giáo Bắc Tông (1) Điểm đặc sắc ...Đại thừa tâm lượng rộng lớn !
20/03/2022(Xem: 3169)
Tâm Đại từ bi. Từ là năng lực đem lại an vui cho chúng sanh; Bi là năng lực dứt trừ khổ đau cho mọi loài. Từ bi có sức mạnh thể chất và tâm linh để dõng mãnh làm lợi lạc cho đời, như vậy trong từ bi đã bao hàm Trí tuệ và Hùng lực mới đủ uy đức nhiếp chúng độ sanh. Tâm Đại từ bi là tâm của bậc đã thành tựu đạo nghiệp. Nay phàm phu chúng con nghiệp dày phước mỏng nhưng cũng nguyện thực tập theo hạnh Từ bi của Bồ Tát. Nguyện cho tâm chúng con mỗi ngày một bớt giận ghét người, không sân si với hoàn cảnh mình đang sống và biết ơn với những gì mình đang có. Nguyện đem tất cả khả năng của mình để cống hiến niềm vui cho đời, giúp người bớt khổ. Nhờ vậy mà tâm chúng con ngày càng tỏa sáng tình thương yêu, hiểu biết để thể nhập vào nguồn sống dạt dào Từ Bi Hỷ Xả của chư Phật, chư Bồ Tát.
19/03/2022(Xem: 2927)
Bồ Tát có gốc là Bodhisattva. Từ Bodhi có nghĩa là " giác ngộ.", sattva có nghĩa là "chúng sanh". Bodhisattva được dịch là chúng sanh giác ngộ hoặc người giác ngộ. Sau khi đạt được giác ngộ, bằng từ bi và trí tuệ, vị Bồ Tát giúp mình và người khác vượt qua biển khổ đến bờ an lạc. An lạc chính là Niết Bàn. Trong cuộc sống hàng ngày, các vị Bồ Tát luôn có mặt quanh ta, gồm Bồ Tát xuất gia và Bồ Tát tại gia. Đó là những người bằng trí tuệ, công sức giúp mọi người bớt khổ đau trong thân và tâm. Bồ Tát làm được điều đó bởi trong tâm của Bồ Tát tồn tại một năng lượng gọi là Tâm Bồ Đề. Khi quy y Tam Bảo, ai cũng muốn có Tâm Bồ Đề. Để đạt được Tâm Bồ Đề của một vị Bồ Tát, người tu phải tự hỏi: Mình an lạc không? Mình sống chan hòa với những người xung quanh không? Người tu phải hiểu rõ cái tính Không trong cuộc sống. Hoa cũng là đất và đất cũng là hoa. Bởi khi ngộ được “Ngũ uẩn giai không” thì mới “ độ nhất thiết khổ ách” tức là vượt qua mọi khổ đau đến được bờ Niết Bàn.
01/11/2021(Xem: 6789)
Kính mừng Lễ Vía Đức Phật Dược Sư Đản Sinh 30/9 Nhân ngày lễ Đức Đông Phương Giáo Chủ cùng tìm hiểu niềm tin đối với Ngài và sự mầu nhiệm linh ứng đến với mỗi Phật Tử .... Cách đây 25 năm, lần đầu tiên sự linh ứng của Phật Dược Sư đã đến với tôi một cách bất ngờ mà sau này khi học Phật tôi mới hiểu là mình có được túc duyên mới có được một phương thuốc nhiệm mầu về tâm linh do Ngài ban tặng qua câu thần chú linh ứng như sau mà lúc ấy chưa có YouTube để nghe như bây giờ .... Thần chú Dược Sư là một trong những câu thần chú được trì tụng nhiều nhất bởi công năng bất khả tư nghì mà nó đem lại cho hành giả khi trì tụng. Không chỉ có năng lực chữa lành bệnh tự thân hành giả mà còn có công năng chữa bệnh cho người khác. Quan trọng hơn là khả năng tịnh hoá những nghiệp bất thiện trong
22/10/2021(Xem: 3201)
Kính mừng Lễ Vía Quán Thế Âm 19/9 Kính dâng Thầy bài thơ nhân ngày Lễ Vía Quán Thế Âm 19/9 âm lịch ( 24/10/2021) .Kính chúc sức khỏe Thầy Kính ngưỡng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ... Một lần nữa, sự nhiệm mầu đã đến ! Melbourne vừa gỡ bỏ lockdown hai ngày Lễ vía Bồ Tát 19/9 sẽ cử hành ... hoan hỷ thay ! Mừng Ngài đã lắng nghe, giải cứu giúp thoát Khổ ! Sự là lòng từ bi nhân ái vị tha ...Bồ Tát Độ Lý thì chúng con tự cứu độ bản thân Bao dung, không tham đắm ái nhiễm bụi trần Bố thí, yêu thương người .. luôn giữ tâm ý sạch ! Kính nguyện : ... học ý nghĩa tên Ngài để làm tròn trọng trách, Người Phật Tử phải thể hiện được Từ Bi Nhẫn nhịn trước mọi nghịch duyên chớ khóc than chi Hiểu rõ hơn, lắng nghe hơn ... giải tỏa uẩn khúc ! Ngày Lễ Vía Quan Âm Xuất Gia 19/9 .. nguyện hứa biết tri túc ! Huệ Hương Melbourne 24/10/2021
06/09/2021(Xem: 4246)
Địa ngục là một khái niệm thuộc thế giới quan, nhằm mục đích trừng ác, răn dè hành vi của con người trong thế giới thực tại. Quan niệm về địa ngục được hình thành trên cơ sở thuyết luân hồi, luật nhân quả, thuyết báo ứng. Từ tư tưởng triết học, địa ngục được chuyển hóa thành nhiều loại hình nghệ thuật tôn giáo khác nhau, từ các dịch phẩm, khoa nghi, thơ phú, cho đến nghệ thuật tôn giáo, hội họa, bích họa, điêu khắc, phù điêu, đồ họa. Sự ảnh hưởng của kinh tạng Bắc truyền và nền nghệ thuật Phật giáo Đông Á là điều ai cũng có thể dễ dàng nhận thấy. Từ triều đại Lê Thánh Tông (1442-1496) có bài “Thập giới cô hồn quốc ngữ văn”, trong có đề cập đến thiên đường, địa ngục, Phong Đô, cảnh đói khát dưới chốn âm ty. Bài này dùng để răn dè 10 loại người gồm: thiền tăng, đạo sĩ, quan lại, Nho sĩ, thầy địa lý, thầy thuốc, tướng quân, hoa nương, thương nhân, đãng tử. Như vậy có thể hiểu được rằng dẫn có những tham khảo nhất định về địa ngục của Phật giáo. Bài này là để cúng xá tội vong li
24/07/2021(Xem: 3368)
Kính lạy Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát ( Avalokitesvara) Ngài là vị Bồ tát với hạnh nguyện luôn lắng nghe tiếng kêu khổ đau của cuộc đời rồi tìm cách cứu giúp chúng sinh. Hôm nay là ngày vía Đức Ngài đã thành Đạo 19/6 âm lịch rơi vào 28/7/2021. Kính bạch Ngài .... Từ nhiều năm về trước các chùa Tự viện tại VN và Hải ngoại đều cử hành 3 ngày vía (19/2-19/6-19/9) rất trọng thể để quy ngưỡng và dâng trọn niềm tin đến Đức Ngài. Vị Bồ tát có khả năng thị hiện vô biên thân, tùy theo hoàn cảnh và điều kiện mà hiện thân tương ứng để cứu độ muôn loài.( theo kinh Pháp Hoa ). Và con đã từng khấn nguyện sẽ cúng dường đến Ngài bằng những vần Thơ , bài viết hầu tán dương Ngài với hạnh nguyện Nhĩ căn Viên Thông như Đức Cổ Phật hiệu Chánh Pháp Minh Như Lai đã thành tựu và trong dân gian Ngài (Bồ-tát Quán Thế Âm ) được tha thiết thầm kính tôn xưng Mẹ Quan Âm .
26/06/2021(Xem: 11775)
1/ Tôn Giả Xá-lợi-phất: Trí huệ đệ nhất Trí tuệ cao minh vi đệ nhất Tăng đoàn thống lãnh trợ Từ Tôn Kỳ Viên Tinh Xá thân lâm kiến Đạo nghiệp truyền lưu chiếu ánh quang. Trí tuệ sáng ngời là số một Tăng đoàn thống lãnh giúp Từ Tôn Kỳ Viên Tinh Xá đích thân dựng Đạo nghiệp lưu truyền rạng ánh quang Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Trí Tuệ Đệ Nhất Xá Lợi Phất Tôn Giả 2/ Tôn Giả Mục-kiền-liên: Thần thông đệ nhất Thần thông đệ nhất chúng xưng dương Thống lãnh tăng đoàn trợ Pháp Vương Hiếu kính mẫu thân khai diệu pháp Vu Lan báo hiếu vĩnh lưu hương. Thần thông số một chúng xưng dương Thống lãnh tăng đoàn trợ Pháp Vương Hiếu kính mẫu thân khơi pháp diệu Vu Lan báo hiếu mãi lưu hương. Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Thần Thông Đệ Nhất Mục Kiền Liên Tôn Giả
26/04/2021(Xem: 13502)
Đức Chuẩn Đề (1) vốn là Thất Cu Chi Phật Mẫu. Mười sáu tháng ba âm lịch, vía lễ thực thi (2) Ngài thường thuyết giảng Kinh Đà La Ni, Nguyện cầu tất cả trong Thế gian, Xuất thế gian đều thành tựu ... Khi nhìn biểu tượng Ngài ...khiến tâm tự nhủ (3) Uy lực từ bi vô biên với quần sanh Trí tuệ vĩ đại ...tay thứ chín ..Bát Nhã kinh Nguyện noi gương Bồ tát Long Thọ đọc 7 lần thần chú (4) Nam Mô Phật Mẫu Chuẩn Đề Đại Bồ Tát
29/03/2021(Xem: 3642)
Không hiểu tại sao đến bây giờ tôi mới chú ý đến điều lý thú và mầu nhiệm này giữa Khánh Vía 19/2 của Bồ Tát Quán Thế Âm và Khánh Vía 21/2 của Đức Bồ Tát Phổ Hiền! Như chúng ta ai cũng biết Phật giáo Đại Thừa có Tứ Đại Bồ Tát đó là : Đức Quán Thế Âm, Đức Đại Trí Văn Thù, Đức Đại Hạnh Phổ Hiền và Đức Địa Tạng Bồ Tát . Từ lâu Phật tử Bắc Tông thường cử hành long trọng 3 ngày lễ vía cho Đức Bồ Tát Quan Thế Âm đó là 19/2 ngày đản sanh , 19/6 ngày thành đạo và 19/9 ngày xuất gia . Riêng lễ vía Đức Bồ Tát Phổ Hiền đản sinh vào ngày 21 tháng hai âm lịch và nhưng rất ít khi được nhắc đến lễ vía Đức Ngài thành đạo vào ngày 23 tháng tư âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]