Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

06. Những đóng góp của hai vị Đại đệ tử

13/01/201216:17(Xem: 8178)
06. Những đóng góp của hai vị Đại đệ tử


Cuộc đời tôn giả Mục Kiền Liên

Tác giả: Hellmuth Hecker- Dịch giả: Nguyễn Điều

6- NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA HAI VỊ ĐẠI ĐỆ TỬ 

Trong Tam tạng Kinh điển, có nhiều bản “thuật sự” nói về những công tác mà hai vị đại đệ tử đã thực hành chung để phụ tá Đức Phật chăm sóc Giáo hội. Cả hai đã làm việc rất nhiều để cho cộng đồng Tăng lữ được phát triển đầy đủ ơn ích. Những đóng góp của họ hầu hết nhắm vào việc dung hòa nội bộ, ổn định và gìn giữ kỷ luật Giáo hội, đáng được ghi lại cho hậu thế noi theo.

Chẳng hạn như vụ Đức Phật ra lệnh trục xuất nhóm sáu vị Tỳ-kheo Chabaggiya (Lục quần Tỳ-kheo) cố ý dễ duôi và bất tuân kỷ luật mà Đức Phật đã lắm lần khuyên răn không kết quả (ghi trong Kìta Giri thuộc bộ Majjhima Nikàya 70). Đây không phải là một việc dễ làm! Và cũng vì nhóm sáu vị Tỳ-kheo này mà một số giới luật mới đã được Đức Phật chế định.

Sau cùng, vì thái độ quá sân si, bất phục thiện của họ mà Đức Phật quyết định cho phép Sàriputta và Mahà Moggallàna (với sự ủng hộ của Tăng-già Tỳ-kheo đầy đủ đức hạnh) trục xuất sáu Tỳ-kheo khó dạy này ra khỏi Giáo hội một cách êm đẹp (Culla Vagga VI,13-16).

Đặc biệt nhất là sau đó, hai vị đại đệ tử đã thành công trong việc khuyến dụ được những Tỳ-kheo trẻ tuổi bồng bột, nghe lời xúi giục của Đề-bà-đạt-đa hành động sai lầm, quay về với Đức Phật và giữ lại đời sống phạm hạnh.

Khi thực hiện điều này, Sàriputta đã dùng Tha tâm thông để thấy rõ những Tỳ-kheo nhỏ lầm lạc kia suy nghĩ gì mà giải thích ngay điểm họ hiểu quấy, còn Mahà Moggallàna thì dùng những thần thông khác! (Theo Culla Vagga VII,4).

Biến cố sau đây chứng tỏ rằng hàng ngũ Giáo hội dưới sự hướng dẫn của Sàriputta và Mahà Moggallàna đã được vững chắc: Một lần nọ, khi Sàriputta bị một Tỳ-kheo thù nghịch vô cớ kết tội, Mahà Moggallàna và Ananda đã lập tức triệu tập Tăng chúng để nhìn nhận và phán quyết sự điều trần chơn chánh của Sàriputta trước lời buộc tội của người đối lập, là sự thật. (Anguttara Nikàya IX 11)

Lần khác, khi Mahà Moggallàna bị bệnh, Đức Phật đã đến thăm và khuyến khích ngài bằng một bài pháp nói về bảy yếu tố Giác ngộ. Mahà Moggallàna đã nhờ bài pháp này mà khắc phục được đau đớn và khỏi bệnh. (Samyutta Nikàya 46,15)

Sau khi đạt đến Thánh quả A-la-hán, và được Đức Phật giao phó trách nhiệm hướng dẫn Giáo hội, hai vị đại đệ tử thường sống chung với nhau trong một tu viện thuộc Trúc Lâm tịnh xá (Veluvana Vihara). Họ thường tổ chức những buổi luận đạo, với sự tham dự của một số Tăng lữ để giúp những đồng đạo gia tăng sự hiểu biết trong Phật giáo hoặc đả thông những điểm nghi ngờ của họ. (Majjhima Nikàya No 5). Và có rất nhiều bài pháp đã được hai vị đại đệ tử này thuyết cho Tăng chúng nghe.

Những bài pháp do Mahà Moggallàna thuyết được ghi lại trong các Kinh: Majjhima Nikaya số 15, Anguttara Nika(ya 35, 202.

Họ cũng dùng khá nhiều thì giờ trong việc chủ tọa những buổi luận đạo của những hàng đệ tử. (Ghi trong Kinh Samyutta Nikàya 14, 15)

Ngoài ra còn có những mẫu đối thoại sâu sắc với Đại đức Anuruddha (A-nậu-lâu-đà), một Thiền sư thượng thừa trong các hàng đại đệ tử Phật. Những mẫu đối thoại như thế đề cập đến pháp Thân quán Niệm xứ (tức sự quán xét biết mình) (ghi trong Samyutta Nikàya 47, 26-27) và sự khác biệt giữa hai bậc Hữu học (Sekha) và Vô học (Asekha) (Samyutta Nikàya 52, 4-6).

Cả hai vị đại đệ tử thường được Đức Phật nhiệt liệt khen ngợi về việc làm hữu ích của họ nhưng họ không bao lấy làm hãnh diện. Vì họ là những Thánh nhơn, nên các sự ngã mạn, tự cao v.v... không còn trong họ nữa.

Xin kể một giai thoại:

Một lần nọ khi hai đại đệ tử này đang ngồi gần Đức Thế Tôn. Phật yên lặng và cả hai vị đại đệ tử đều tĩnh tọa trong một trạng thái đoạn tuyệt phiền não. Chợt Đức Phật thốt ra những câu tán dương sau đây, trước tiên đến Sàriputta và sau đến Mahà Moggallàna:

“Như đỉnh núi không lay trên mặt đất,

Một Sa-môn vọng tưởng đã tiêu tan,

Tâm và trí không còn theo phóng dật,

Thì lục căn tinh khiết sáng như vàng.

Thiền an trụ làm thân tâm hóa Phật,

Rồi Sa-môn thấy rõ Pháp Niết-bàn!”

(Thoát dịch theo Kinh Uda(na III, 4-5)

Còn sự khiển trách thì chỉ có một lần Đức Phật đã không đồng ý với Sàriputta mà lại khen ngợi Mahà Moggallàna (Mục-kiền-liên). Câu chuyện như sau:

Lúc ấy, Đức Thế Tôn vừa yêu cầu một nhóm Tỳ-kheo làm ồn, vốn là học trò của Đại đức Sàriputta, ra khỏi nơi Phật ngự. Đức Phật bèn hỏi hai vị đại đệ tử xem họ nghĩ sao khi Phật làm như vậy. Sàriputta trả lời: “Vì Đức Thế Tôn muốn an định trong thiền cảnh, và chư đệ tử phải tuân hành”. (Ý nói Sàriputta và Mahà Moggallàna, sau khi nhóm Tỳ-kheo ồn ào kia đi rồi, họ phải cùng với Đức Phật nhập vào thiền định).

Nhưng Đức Phật đã quở trách Sàriputta. Ngài nói: “Ông không nên có ý nghĩ như vậy, và đừng bao giờ tái suy nghĩ như thế!”.

Rồi Phật quay sang Mahà Moggallàna nhắc lại câu hỏi tương tự. Mahà Moggallàna đáp lại rằng: “Khi Đức Thế Tôn muốn an định trong thiền cảnh thì các đại đệ tử, nhất là đạo huynh Sàriputta phải có trách nhiệm coi ngó chư Tăng (dạy dỗ các đệ tử của mình).

Đức Phật liền khen ngợi Mahà Moggallàna và tiếp rằng: “Cả hai đại đệ tử phải trông nom cộng đồng Tăng lữ một cách tốt đẹp như chính đích Đức Phật trông nom vậy!”.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/04/2019(Xem: 6396)
Không hiểu từ lúc nào tôi đã có thói quen không bỏ được cho đến nay, thường sau buổi công phu tôi lập lại nhiều lần theo như lời Đức Đạt Lai Lạt Ma " NAM MÔ NGŨ TRÍ NGHIÊM THÂN ĐẠI TRÍ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT (3) kính mong cầu đến sự hộ trì giúp đỡ của Ngài để trí tuệ con ngày thêm được sáng suốt như Ngài " và tiếp theo là câu thần chú để khai mở trí tuệ OM A RA PA TSA NA DHI và tự tin rằng mình đã được chúc phúc .
30/03/2019(Xem: 9626)
Trong pháp hội Hoa Nghiêm, ngài Phổ Hiền Bồ Tát sau khi khen ngợi công đức thù thắng của Phật đã nói với đại chúng rằng muốn trọn nên công đức như Phật thì phải tu mười điều rộng lớn như sau: Một là lễ kính các đức Phật. Hai là khen ngợi các đức Như Lai. Ba là rộng sắm đồ cúng dường. Bốn là sám hối các nghiệp chướng. Năm là tùy hỷ các công đức.
23/03/2019(Xem: 3993)
Núi ngũ hành là năm ngọn núi Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ, nằm trên vùng cát trắng; xuất hiện cạnh dòng sông Trường nối dài với sông Hàn. Ngày nay dòng sông Trường đã bị bồi lấp một phần thành đồng ruộng và ao hồ. Nằm tựa lưng vào ngọn núi này là ngôi chùa Quan Âm cổ kính với động Quan Âm huyền bí.(wikipedia).
19/03/2019(Xem: 5712)
Từ nhiều năm nay, tôi có một thói quen đã trở thành tập khí là miệng thì đọc mà tâm chẳng bao giờ tập trung vào một chỗ cho nên nhiều năm qua tuy mỗi lần công phu và sau đó đều tự thệ Bồ Đề Tâm Giới theo Mật Tông... thế nhưng rồi đâu cũng vào đó.
16/03/2019(Xem: 5190)
Những ngày cuối năm (2012), có dịp đi một vòng từ An Giang đến Bà Rịa – Vũng Tàu, ghé qua Long Thành (Đồng Nai) rồi dừng chân tại Saigon, quận 4 để đón giao thừa tại đạo tràng Tịnh Xá Từ Quang. Nơi đây, vào những ngày tháng bình thường rất ồn náo về việc mua bán, người xe ầm ỉ, nhưng đến những ngày áp Tết, nhất là từ ngày 27 đến 30 Tết thì khu vực nầy bỗng dưng thay đổi lạ, êm lặng nhẹ nhàng như một khu phố mà người ta cho rằng: đạt chuẩn văn hóa nào đó...
13/09/2018(Xem: 4598)
Tuy hai chữ nầy khác âm nhưng đồng nghĩa, tùy theo âm điệu bằng trắc mà đọc. Theo nghĩa kinh điển Phật Giáo là xem xét điều lầm lỗi trái quấy đặng trừ bỏ đi. Lại còn có nghĩa là quán tưởng đi đến đạt chân lý, đạt đến Trí Tuệ viên mãn. Tiếng Phạn là Ayana. Như: Quán Chiếu, tức là dùng trí tuệ chiếu kiến sự lý. Quán Đạo: quán xét pháp lý của đạo. Quán Đạt: dùng trí tuệ quán xét thông đạt đến chỗ cùng tột. Quán Không: quán tưởng thấy các Pháp đều không có tướng. Quán Phật, Quán Phật Tam Muội: quán tưởng hình Phật có đầy đủ các tướng tốt đó là phép tam muội quán tưởng Phật.
12/09/2018(Xem: 5123)
Trong hai ngày 29,30/07/ Mậu Tuất (08,09/9/2018) nhân ngày Vía đức Bổn tôn Địa Tạng Vương Bồ tát, tại chùa Bửu Long (thôn Lễ Thạnh, xã Diên Toàn, huyện Diên Khánh, , tỉnh Khánh Hòa), ĐĐ. Thích Nhật Nghiêm, trú trì thành kính trang nghiêm tổ chức Đại lễ Trai đàn Chẩn tế, Pháp hội Địa Tạng, bạt độ tiên linh, cúng dường Trai tăng cầu nguyện quốc thái dân an, thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc.
06/09/2018(Xem: 7204)
Không biết bạn có khi nào cảm thấy lòng mình rúng động và nước mắt rưng rưng khi nghe các bậc cao tăng cất cao giọng ngâm và đánh lên ba tiếng chuông trước một ngôi chùa cổ tại một danh lam thắng cảnh khi tham dự một chuyến hành hương không ?
03/09/2018(Xem: 8212)
Vào ngày 01 tháng 9 năm 2018, tại trường Yerba Buena, thành phố San Jose, nhân lễ vía đức Bồ tát Địa Tạng, gia đình Phật tử An Nguyệt đã thành tâm phát nguyện tổ chức Pháp hội Địa Tạng tu học một ngày dưới sự hướng dẫn của chư Tôn đức Tu viện Huyền Không, San Jose.
28/07/2018(Xem: 8618)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, còn gọi là Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, có khi còn gọi là Đức Phật Quan Âm, được Phật tử nhiều quốc gia Châu Á thờ phượng vì hạnh nguyện hóa hiện nhiều thân tướng để cứu độ chúng sanh. Riêng đối với Nhật Bản, nơi nhiều tông phái Tịnh Độ thịnh hành, hình tượng Đức Quan Âm hiện diện trong rất nhiều chùa, trong các tuyến hành hương, và trong văn học. Bạn chỉ cần đi vào bất kỳ ngôi chùa nào tại Nhật Bản, nhiều phần là bạn sẽ gặp tượng Đức Quan Âm, hoặc là nghìn tay nghìn mắt gọi là Senju Kannon (Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm), hoặc là một hóa thân của ngài là tượng Đức Chuẩn Đề 18 tay, nhưng thường gặp nhất là tượng Quan Âm Nam Hải trong bộ áo trắng. Chúng ta có thể đọc trong thơ của Basho (1644-1694) hình ảnh nhà thơ đứng nơi gác chuông Chùa Kannon (Quan Âm Tự) nhìn xuống núi, thấy mái ngói chùa trôi nổi trong các chùm mây hoa anh đào: Mái ngói Chùa Quan Âm trôi dạt xa trong mây của các chùm hoa anh đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]