Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Những bậc Thanh-văn xuất sắc

13/01/201216:17(Xem: 7391)
05. Những bậc Thanh-văn xuất sắc


Cuộc đời tôn giả Mục Kiền Liên

Tác giả: Hellmuth Hecker- Dịch giả: Nguyễn Điều

5- NHỮNG THANH VĂN XUẤT SẮC 

Trong Mahapadana Sutta, bài Kinh thứ 14 thuộc bộ Digha Nikaya (Trường A Hàm) Đức Phật đã đề cập đến những vị Chánh đẳng Chánh giác trong quá khứ và xác nhận rằng các vị Chánh đẳng Chánh giác ấy mỗi vị đều có hai đệ tử lãnh đạo và một đệ tử hầu cận. Rồi trong một chỗ khác, Kinh Samyutta Nikaya (Tạp A Hàm 17, 14) Phật còn nói rằng: Tất cả những bậc Chánh đẳng Chánh giác trong quá khứ và tương lai đã hay sẽ có một đôi đệ tử xuất sắc nhất.

Mỗi khi có đấng Toàn giác xuất thế, ba vị đại đệ tử này (tức hai vị lãnh đạo Tăng chúng và một vị hầu cận) rất cần thiết. Ngài ví họ như ba vị cầm đầu ba bộ Quốc phòng, Nội vụ và Tài chánh của một nhà vua. Đức Phật so sánh việc điều hành Phật giáo như cách tổ chức của một quốc gia, Phật đã nói Ananda (Đại đức A-nan) như người “Tàng trữ” Pháp Bảo (Bộ trưởng Tài chánh), vì Ananda là đệ tử nhớ tất cả những bài pháp của Phật thuyết. Đức Phật cũng nói đến Sàriputta như vị “Tổng tư lệnh” chu toàn, bảo vệ phạm vi Giáo hội (Bộ trưởng Quốc phòng) và Mahà Moggallàna là người có trách nhiệm nội bộ, như bà vú trong gia đình chăm lo con cái, như “Bộ trưởng Nội vụ” duy trì nội an.

Cả bốn Thánh nhơn này (tức Đức Phật cộng với hai đệ tử lãnh đạo và một đệ tử hầu cận) có thể chia làm hai nhóm: Một nhóm gồm hai vị có nhiều điều tương đồng. Chẳng hạn như Đức Phật và Ananda (A-nan) thuộc giai cấp “Chiến sĩ” (Khattiya). Tương tự như thế, Sàriputta (Xá-lợi-phất) và Mahà Moggallàna (Mục-kiền-liên) thuộc giai cấp Bà-la-môn và ra đời cùng thời kỳ.

Sự quan hệ thân tộc này đã nghiệm đúng trong đời sống thanh tịnh hàng ngày: Ananda luôn luôn ở bên cạnh Phật, kể từ khi ngài trở thành đệ tử hậu cận như bóng với hình. Còn Mahà Moggallàna và Sàriputta thì gần như không thể tách rời nhau được.

Lúc tuổi về chiều, mỗi khi Đức Phật cảm thấy thân thể mỏi mệt, ba vị đại đệ tử này là ba vị duy nhất được Phật cho phép nhân danh Ngài giảng giải giáo pháp.

Chẳng hạn như đã xảy ra ở Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) Mahà Moggallàna thay Phật thuyết một bài pháp thật dài nói về sự thu thúc lục căn để đối trị tình trạng chìm đắm trong lục trần. (Theo Kinh Samyutta Nikàya: Tạp A Hàm, 35, 202).

Sau khi Sàriputta và Mahà Moggallàna đắc quả A-la-hán. Đức Phật đã tuyên bố trước Tăng chúng rằng họ sẽ đóng vai trò hai vị đệ tử lãnh đạo.

Một số Tỳ-kheo tỏ ra ngạc nhiên và bắt đầu so bì tại sao Đức Thế Tôn lại nâng đỡ những Tỳ-kheo “mới xuất gia”. Họ bàn tán: “Người xứng đáng được Phật ban cho phẩm vị ấy phải là nhóm năm thầy Kiều-trần-như, hoặc giả Trưởng lão Yasa hay ba vị đại Sa-môn Kassapa (Ca-diếp). Tại sao Đức Phật không ngó ngàng các vị này, mà lại ban giáo phẩm cao nhất đến những đệ tử mới xuất gia và “thấp hạ” nhất?”

Để phân giải sự xôn xao ấy, Đức Thế Tôn dạy rằng: Mỗi người chỉ gặt hái những gì họ đã tạo. Sàriputta và Mahà Moggallàna vốn trong nhiều kiếp quá khứ gieo trồng phẩm vị ấy. Cả hai đã tuần tự bồi đắp công năng trở thành đại đệ tử Phật. Trong khi đó những Tỳ-kheo khác thì cố gắng tiêu trừ phiền não để giải thoát mà thôi. Tuy cả hai vị đại đệ tử thuộc về một giai cấp xã hội khác, và từ một tín ngưỡng khác mới gia nhập Phật giáo, nhưng địa vị đặc biệt của họ trong hàng Thánh nhơn là một địa vị đặc biệt do luật nhân quả ấn định.

Ngoài ra Đức Phật cũng đã nhiều lần, trong nhiều trường hợp khác nhau, ca ngợi đôi đệ tử ưu tú này như sau:

“Sàrìputta và Mahà Moggallãna là những vị Thánh nhơn độc đáo, là những Sa-môn ưu hạng trong cộng đồng Tăng lữ. Họ luôn luôn thực hành đúng lời giáo huấn của Như Lai, sống theo chơn lý. Hai Thánh Tăng ấy xứng đáng cho hàng Tứ chúng lễ bái và kính mến”. (Sam(yutta Nikàya: Tạp A Hàm 47, 14)

Và:

“Nếu một người mẹ hiền, thường khuyên nhắc đứa con trai yêu quý rằng: Này con! Con nên học hành và giữ gìn nết hạnh như một “Quan nội giám” hay như một Hatthaka của giòng họ Alavi. Vì đây là hai hạng người gương mẫu của xã hội hiện tại. Thì (xa hơn nữa) bà mẹ ấy nên dạy tiếp rằng: Này con! Đứa con yêu quý của mẹ. Nếu con muốn được giải thoát, sống đời sống vô gia đình của một đạo sĩ chơn tu thì con nên làm như Sariputta và Mahà Moggallàna! Vì hai Sa-môn này là hai tấm gương sáng của các hàng Tỳ-kheo vậy!”. (Samyutta Nikàya 17, 23)

Một chỗ Kinh khác:

“Này chư Tỳ-kheo! Hãy học hỏi và tu tập cùng Sariputta và Mahà Moggallàna. Vì hai Sa-môn này có đầy đủ sức thông minh và tinh thần hỗ trợ cho đồng đạo trong đời sống thánh thiện! Sariputta có thể ví như người mẹ, và Moggallànaví như bà vú. Sariputta đủ khả năng hướng dẫn phàm Tăng đến Thánh quả Nhập lưu và Mahà Moggallàna sẽ đưa họ đến cứu cánh giải thoát!”. (Majjhima Nika(ya: Trung A Hàm số 141)

Đặc điểm hai vị đại đệ tử này trong các lời ca ngợi nêu trên của Đức Phật có thể phân tích như sau: Sàriputta có một biệt tài khai thị và hỗ trợ những ai được ngài dạy dỗ, chặt đứt ba xiềng xích sanh tử đầu tiên nơi tâm thức để bước vào Thánh đạo! Nghĩa là ngài có khả năng cải hóa phàm nhân một cách rất hiệu quả, bằng cách làm cho họ thấy rõ sự ảo mộng của kiếp người, rồi đưa họ vào giai đoạn bình an, không còn sa đọa.

Sàriputta giống như một hiền mẫu, hằng theo dõi và hướng dẫn những bước chân đầu tiên của trẻ thơ. Hoặc nói cách khác, Sàriputta là vị thầy thọ ký, hay ít nhất là bậc Sa-môn làm nở được đóa hoa Tu-đà-hoàn trong mỗi học trò.

Còn Mahà Moggallàna hằng tiếp tục hướng dẫn chư Tỳ-kheo đã bước vào Thánh lưu tiến đến mục tiêu cuối cùng, Mahà Moggallàna không bao giờ để cho một vị Tu-đà-hoàn dừng lại ở đó, mà sẵn sàng soi sáng khuyến khích hành giả tới nơi tới chốn. Mahà Moggallàna như một Sa-môn vô địch về đức tánh tinh tấn, nên những Tỳ-kheo nào hữu duyên tu tập gần ngài, có thể xem như tu tập gần Đức Phật, vì phương pháp phát triển tinh tấn mà Mahà Moggallàna áp dụng để hỗ trợ đồng đạo cũng giống như phương pháp mà Đức Phật đã hỗ trợ ngài trước đây. Nói tóm lại, Mahà Moggallàna gần như một bà vú luôn luôn dinh dưỡng và củng cố sức mạnh của trẻ thơ cho đến khi khôn lớn vững chắc.

Riêng Đức Phật tượng trưng cho sự tổng hợp của hai phẩm tánh Sàriputta và Moggallàna. Nếu Sàriputta là người mẹ, Moggallàna là bà vú, mỗi người có một ân đức riêng đối với trẻ thơ, thì Đức Phật quả thật vừa là người mẹ, vừa là bà vú đối với tất cả chúng sanh, nhất là đối với những ai đã bước vào con đường Bát Chánh (Atthangika Magga).

Để dễ nhớ, chúng ta có thể tóm tắt rằng cuối cùng Sàriputta và Mahà Moggallàna đều giải thoát, những phương tiện để hai vị này tiến tới giác ngộ là chiều rộng và chiều sâu. Sàriputta nhờ vào Trí tuệ (rộng), và Mahà Moggallàna nhờ vào Thiền định (sâu) (Ceto vimutti canivimuttica).

Dữ kiện này được hoàn toàn chứng minh khi hai đại đệ tử Phật được giao phó trách nhiệm chăm sóc sự tu tập của Rahula (La-hầu-la), người con kiếp chót của Đức Phật.

Vì là một Tỳ-kheo vừa xuất gia, Rahula có hai vị thầy A-xà-lê (Acariya): một dạy dỗ về Pháp bảo và một chăm sóc hạnh kiểm. Sàriputta được Phật chỉ định làm thầy dạy đạo, và Mahà Moggallàna làm Sư trưởng giám hộ hạnh kiểm và tu tập thiền định...

Một hôm, Sàriputta nói với Moggallàna rằng: “Này đạo huynh! Sự hiểu biết của bần Tăng so với những thần thông vĩ đại của đạo huynh chẳng khác nào một mảnh đá vụn đối với toàn khối núi Hy-mã-lạp-sơn to lớn hùng vĩ!”

Mahà Moggallàna liền đáp lại rằng: “Nhưng đổi lại, này Sàriputta! Về sức thông minh, trí tuệ của bần đạo đối với trí tuệ của Thánh huynh chỉ như một hạt cát nhỏ trong một bãi sa mạc!” (Theo Samyatta Nikaya 21,3)

Về những tầm thông thái đa diện, một hôm Đức Phật đã tiết lộ rằng: “Có những pháp chỉ có Như lai mới nghiệm ra và có thể thông giải, nhưng không phải Sàriputta. Rồi có những vấn đề chỉ có Sàriputta mới cắt nghĩa nổi, chứ không phải Mahà Moggallàna. Và cũng có những công việc chỉ có Mahà Moggallàna mới đủ khả năng giải quyết, chứ không phải bất cứ một Tỳ-kheo nào khác!” (Theo Jataka 483)

Vì vậy, hai vị đại đệ tử ấy có thể xem như hai gạch nối giữa những phẩm lực Tối thượng của Đức Phật với khả năng của chư vị đệ tử khác.

Khi Đề-bà-đạt-đa tuyên bố đòi lãnh đạo Giáo hội, Đức Thế Tôn đã nói rằng Ngài sẽ không giao phó ai cầm đầu Tăng chúng. Ngay cả hai vị đại đệ tử Sàriputta và Mahà Moggallàna, khiến cho Đề-bà-đạt-đa (Devadatta) bị cô lập. (Cula Vagga VII, 3)

Trong sự phẩm định những đệ tử ưu tú trên cán cân, một bên là Sàriputta và Moggallàna và bên kia là Đề-bà-đạt-đa (kẻ hằng làm cho nhiều Tỳ-kheo nông nổi trở nên hư hỏng), còn một số đông Sa-môn khác với nhiều trình độ và công hạnh khác nhau, nên Đức Phật đã phủ dụ như thế.

Bởi tranh giành chức “Đệ tử ưu tú” mà một Tỳ-kheo tên Kokalika, nghe lời Đề-bà-đạt-đa, đã có lần vu khống hai vị đại đệ tử ấy rằng “họ có nhiều ác ý” thay vì sự tố cáo đó nên nhắm vào Đề-bà-đạt-đa.

Đức Phật đã dạy:

“Này Kokalika! Ông không nên lầm lẫn như thế! Hãy thân thiện và tín nhiệm Sàriputta và Mahà Moggallàna, vì họ là hai Sa-môn có khả năng!” (Theo Samyutta Nikàya 6-10, Tạp A Hàm 6-10).

Dù được Phật nhắc nhở như vậy, nhưng Kokalika vẫn tiếp tục vu oan nên đã chịu quả khổ. Theo Kinh ghi lại thì Đề-bà-đạt-đa (Deva-datta) và Kokalika đã bị đọa vào địa ngục Vô gián, tức địa ngục của những kẻ nặng tội nhất. Ngược lại, Sàriputta và Mahà Moggallàna thì đạt tới Thánh quả cao nhất, giải thoát Niết-bàn([1]).


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/03/2011(Xem: 7028)
Ngài Đại Thế Chí Pháp Vương Tử cùng với 52 vịBồ-tát đồng tu một pháp môn cùng đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật : - Tôi nhớ hằng sa kiếp trước có Đức Phật ra đờihiệu Vô Lượng Quang
20/03/2011(Xem: 12581)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sát và nghiên cứu rất nhiều.
23/02/2011(Xem: 6378)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
21/01/2011(Xem: 4245)
Bồ tát Di Lặc, vị Phật tương lai, có một vị trí quan trọng trong nền tín ngưỡng và văn hoá Phật Giáo. Di Lặc là vị bồ tát duy nhất được các tông phái Phật Giáo, từ tiểu thừa, đại thừa và mật tông tôn kính. Các kinh điển trong cổ ngữ tiếng Phạn Pali và Sanskrit, cũng như kinh tạng đại thừa chữ Hán và tiếng Tây Tạng đều có nói đến vị Phật tương lai này.
13/01/2011(Xem: 3509)
Cùng với thầy của mình là Bồ Tát Di Lặc, Vô Trước là khai tổ của Du Già Tông, hay Duy Thức Tông, một trường phái của Đại Thừa Phật Giáo. Ba người con trai lớn nhất, đều gọi là Thiên Thân (Vasubandhu), sinh ra ở Purusapura (Peshwar), là những thành viên của gia đình Kiều Thi Ca (Kausika) thuộc dòng dõi Bà La Môn, Ấn Độ. Tất cả ba người đều đã trở thành những Tỳ Kheo Phật Giáo. Người em trai út của Vô Trước được biết là Tỉ-Lân-Trì-Bạt-Bà (Virincivatsa), trong khi người em giữa được biết đơn thuần là Thiên Thân (Vasubandhu), tác giả của Duy Thức Tam Thập Tụng.
04/01/2011(Xem: 3200)
Quán Âm hay Quán Thế Âm là tên gọi của một vị Bồ Tát nổi tiếng trong hệ thống Phật giáo Bắc Truyền (vẫn được thậm xưng là Đại Thừa) khắp các xứ Trung Hoa, Hàn quốc, Nhật Bản, Tây Tạng, Mông Cổ và cả Việt Nam. Chữ Phạn của tên gọi này là Avalokitvesvara, thường được dịch sát là Quán Tự Tại. Chữ Tự Tại (Isvara) này không hề mang nghĩa thanh thản độc lập như nhiều người vẫn nghĩ. Nó là một từ tố thường thấy ngay sau tên gọi của các vị thần Ấn Độ, một chút dấu vết của Ấn Giáo, xa hơn một tí là Bà La Môn giáo thời xưa. Nói mấy cũng không đủ, với phương tiện Internet ngày nay, người muốn biết xin cứ Online thì rõ. Nãy giờ chỉ nói cái tên, cái ý nghĩa hay vai trò của khái niệm Quán Thế Âm mới là quan trọng.
19/12/2010(Xem: 5881)
Qua kinh sách thuộc truyền thống Đại thừa ta được biết mỗi vị Phật thường có hai vị Bồ tát làm thị giả. Nếu như Đức Phật A Di Đà có Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí làm thị giả thì một trong hai vị thị giả chính của Đức Phật Thích Ca là Văn Thù Sư Lợi, đại biểu cho trí tuệ siêu việt. Bồ Tát Văn Thù đã xuất hiện hầu như trong tất cả các kinh điển quan trọng của Phật giáo Đại thừa: Hoa Nghiêm, Thủ Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Duy Ma Cật,… như là một nhân vật thân cận nhất của Đức Phật Thích Ca, khi thì chính thức thay mặt Đức Thế Tôn diễn nói Chánh pháp, có lúc lại đóng vai tuồng làm người điều hành chương trình để giới thiệu đến thính chúng một thời pháp quan trọng của Đức Bổn Sư.
19/12/2010(Xem: 4344)
Từ trước đến nay, những khuynh hướng bài bác Đại Thừa -cả trong lẫn ngoài Phật giáo- thường cho rằng kinh điển Đại Thừa là ngụy tạo, từ đó họ cũng hạ bệ luôn tất cả những vị Bồ Tát đã được quần chúng Phật tử lâu đời tôn thờ kính ngưỡng -đặc biệt là Bồ Tát Địa Tạng- coi đó như là những nhân vật hư cấu, sản phẩm của đầu óc tưởng tượng phong phú của người Trung Hoa. Tuy nhiên các học giả nghiên cứu về Phật giáo cổ Ấn Độ hồi gần đây đã xác định rằng tín ngưỡng tôn thờ Bồ Tát Địa Tạng (Kshitigarbha) đã được khai sanh tại Ấn Độ rất lâu đời, có thể là vào khoảng đầu thế kỷ thứ nhất hoặc thứ hai sau công nguyên (C.E.), cùng một lúc với sự phát triển mạnh mẽ của khuynh hướng Phật giáo Đại Thừa, (2) mà bằng chứng cụ thể là Bồ Tát Địa Tạng và những kinh sách liên quan về Ngài đã được đưa vào chương trình học tập, nghiên cứu tại Đại học cổ điển Phật giáo nổi tiếng Nalanda xứ Ma Kiệt Đà.
14/12/2010(Xem: 2873)
Bồ Tát Quán Thế Âm đang thực sự có mặt bên cạnh chúng ta mang sứ mệnh Bồ Tát vào đời để cứu vớt nhân sinh qua cơn khổ nạn hay chỉ là một nhân vật huyền thoại tôn giáo? Với những người mang nặng tinh thần duy lý cho rằng Đạo Phật không hề đặt cơ sở trên những niềm tin mù quáng và do đó, tin vào sự cứu độ của một tha lực bên ngoài –ví dụ như Quán Thế Âm Bồ Tát- theo họ là một hình thức dị đoan mê tín, khó chấp nhận.
03/12/2010(Xem: 13543)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]