Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

03. Tìm ra chân lý

13/01/201216:17(Xem: 7310)
03. Tìm ra chân lý


Cuộc đời tôn giả Mục Kiền Liên

Tác giả: Hellmuth Hecker- Dịch giả: Nguyễn Điều

3- TÌM RA CHÂN LÝ 

Lúc ấy, Kolita và Upatissa hoàn toàn không biết rằng có Đức Phật. Họ tự nhiên từ bỏ đời sống của hai đạo sĩ du phương và quay về quê hương Ma-kiệt-đà (Magadha) của họ, sau khoảng hai mươi năm ròng rã lang thang tìm đạo.

Điều này xảy ra không lâu, sau khi Đức Phật bắt đầu Chuyển pháp luân (Thuyết pháp lần thứ nhứt) tại vườn Lộc Giã (Isipatana Migadaya), Bénares.

Tuy nhiên, đôi bạn Kolita và Upatissa vẫn chưa từ bỏ hy vọng tìm ra đấng giải thoát. Sau khi trở lại quê nhà, họ quyết định chia tay nhau, mỗi người đi một hướng hy vọng gấp đôi sự tầm đạo như thế, may ra sớm có kết quả. Cả hai cùng ước hẹn với nhau rằng ai tìm ra con đường bất tử trước sẽ lập tức thông báo cho người kia.

Khi ấy, cả Kolita và Upatissa đã khoảng bốn mươi tuổi, và nhằm lúc Đức Phật vừa cho phép đoàn đệ tử đầu tiên đi truyền bá chơn lý. Đoàn Như Lai sứ giả ấy, gồm sáu mươi vị, tất cả là những Thánh nhơn. Mục đích đoàn Thánh Tăng này là đi ban bố giáo lý an lành và tiến hóa trong nhân loại.

Còn Đức Phật, Ngài đích thân đến thành Vương Xá (Rajagaha) để tiếp độ vị vua nước Ma-kiệt-đà (Magadha) tên là Bimbisara (Bình-sa vương) và nhận lãnh ngôi chùa Trúc Lâm (Velu-vana Vihara) do vua dâng cúng. Phật đang có mặt tại ngôi chùa này thì Kolita và Upatissa vừa quay về thành Vương Xá, tạm thời ngụ trong viện của Sanõjaya.

Một hôm, Upatissa đã ra đường phố, còn Kolita ở nhà. Chợt chàng thấy người bạn thân trở về với vẻ mặt vô cùng hớn hở mà từ xưa đến giờ, chàng chưa bao giờ nhìn thấy. Phong độ của Upatissa lúc ấy hoàn toàn khác hẳn: trang nghiêm và rạng rỡ!

Kolita lập tức hỏi:

– Này bạn! Vẻ mặt bạn thật thỏa mãn, dung nghi bạn rất trong sáng, phải chăng bạn đã tìm ra con đường giải thoát?

Upatissa trả lời:

– Đúng như thế, thưa bạn! Pháp giải thoát khỏi sự chết đã được khám phá.

Rồi Upatissa thuật lại rằng: Trên con đường phố chàng gặp một vị Sa-môn phong cách rất tự tại. Vị Sa-môn này đã làm cho chàng phát sanh lòng kinh cảm, rồi chàng không ngần ngại hỏi vị Sa-môn xem Tôn sư ngài là ai. Sa-môn ấy chính là Trưởng lão Assaji một trong những vị đệ tử đầu tiên của Đức Phật và cũng là một trong sáu mươi vị Thánh A-la-hán. Trưởng lão Assaji còn xác nhận rằng ngài chỉ là một đệ tử của vị Đại sĩ thuộc dòng họ Thích Ca.

Khi Upatissa yêu cầu Sa-môn Assaji ban bố giáo lý thì ngài nói rằng ngài không thể thuyết pháp được nhiều, vì ngài mới thọ Cụ túc giới mấy tháng. Và ngài chỉ tiết lộ ngài vừa học được bốn sự thật sâu sa (Tứ diệu đế) mà ngoài bậc Giác ngộ ra, phàm nhân không thể nào quán triệt.

Nhưng Upatissa liền cầu khẩn ngài chỉ dạy cho, dù một phần tinh yếu cũng đủ cho mình phăng ra mối đạo.

Trưởng lão Assaji nghiêm trang nhắc lại một kệ ngôn của Đức Phật rằng:

“Ye Dhamma Hetupabhava,

Tesam Hetum Tathagataha,

Tesam Yo Nirodho

Evam Vadi Mahasamano ti”

Dịch:

“Pháp nào có nhân ấy,

Bậc Giác ngộ đã thấy rõ nhân,

Ngài cũng tìm ra con đường diệt quả.

Đây là giáo lý của các bậc Đại Sa-môn”

Kệ ngôn này sau khi được Đức Phật thốt ra đã trở thành câu nói gói trọn giáo lý giải thoát, và trở thành triết học căn bản của Đạo Phật xuyên qua bao nhiêu thế kỷ.

Upatissa nghe được kệ ngôn ấy liền đắc Pháp nhãn (Dhamma Cakkhu) trong tâm thức chứng quả Nhập lưu, Tu-đa-hoàn (Sota(patti).

Rồi khi chàng thuật lại cho Kolita nghe, người ấy cũng chứng quả tương tự. Nghĩa là cả hai cũng giác ngộ rằng “Bất cứ cái gì sanh ra đều phải tan biến”.

Sự thấy rõ chơn lý do bài kệ này soi sáng, quả thật là một biến cố kỳ diệu. Đối với chúng ta ngày nay, bốn câu kệ ngôn trên đây không thể đả thông hết tâm thức si mê, nên chúng ta nghe mà cũng chưa trực nhận được ý nghĩa nào. Chiều sâu và chiều rộng của câu Phật ngôn ấy, chỉ có thể biểu hiện đối với những ai đã từng nhiều kiếp tu tập hạnh từ bỏ những dục lạc tạm bợ ở đời, và hằng rèn luyện trí tuệ để thấy rõ lý vô thường (luôn luôn chi phối bởi nhân duyên điều kiện) và chứng thực đạo bất sanh tử.

Hơn nữa, câu kệ ngôn này vốn có tác dụng kỳ diệu đối với những ai trí tuệ đã chín muồi, và từng thuần thục trong pháp quán xét các pháp hành thuộc nhân duyên điều kiện. Cộng thêm đôi bạn Upatissa và Kolita đã sẵn sàng tâm thức đón nhận Pháp bảo, nên kệ ngôn do Trưởng lão Assaji thốt ra “Như một giọt nước rót vào chén nước đã đầy”.

Sự chứng quả Nhập lưu Tu-đà-hoàn (Sotapatti) tự động phát hiện, khiến cho người nghe thấy rõ giải thoát Niết-bàn, vượt khỏi những sanh niệm thường tình mà thần chết lúc nào cũng chi phối.

Chỉ trong một ánh loé, Pháp nhãn bừng sáng, trí thức giác ngộ phát sanh, họ đã thấy rõ lý bất sanh bất diệt!

Đến đây cũng cần nhắc lại rằng ba vị đại đệ tử thân cận nhất của Đức Phật là A-nan-đà (Ananda), Xá-lợi-phất (Upatissa Sàriputta) và Mục-kiền-liên (Mahà Moggallàna) đã đắc quả Nhập lưu (Tu-đà-hoàn) không phải nhờ nghe Pháp bảo từ cửa miệng Đức Phật, mà từ các Sa-môn thừa truyền Phật giáo: Ananda thì do thầy Tế độ, một Thánh A-la-hán tên là Punna Mantaniputta, Upatissa Sariputta (Xá-lợi-phất) thì do Trưởng lão Assaji, còn Kolita Moggallàna (Mục-kiền-liên) thì do người bạn vừa đắc quả Tu-đà-hoàn, chưa đạt tới Thánh quả A-la-hán (ám chỉ Upatissa - Xá-lợi-phất).

Để có thể đạt tới một sự giác ngộ kỳ diệu như thế, Kolita Moggallàna phải có một niềm tin nơi trí tuệ của bạn thân lẫn niềm tin trong chơn lý vô cùng vững chắc. Và lẽ dĩ nhiên điều đó là một sự thật, không còn nghi ngờ nữa!

Nghe xong kệ ngôn đầy nhiệm mầu ấy Kolita Moggallàna liền hỏi nơi cư ngụ của Đức Bổn Sư, đấng Toàn giác. Khi nghe Upatissa thuật là Phật ở tại Trúc Lâm Tịnh xá (Jetavana Vihara) cách đó không xa, Kolita Moggallàna liền tỏ ý muốn đến yết kiến Đức Thượng Sư lập tức.

Nhưng Upatissa trầm tĩnh đề nghị: “Này bạn! Trước tiên chúng ta nên đến gặp thầy Sanõjaya và thông báo cho ông biết chúng ta tìm ra đạo bất tử. Nếu thầy ấy hữu duyên, thầy cũng sẽ bước vào ánh sáng chơn lý như chúng ta. Đó là một cách chúng ta tỏ lòng biết ơn thầy đã một thời cho chúng ta học đạo. Còn nếu thầy chưa phát hiện cơ duyên thì thầy sẽ suy nghĩ lại, biết đâu sau này thầy sẽ nhờ chúng ta đưa đến ra mắt Đức Phật. Chừng đó khi nghe Pháp bảo nơi kim khẩu đấng Toàn giác, thầy sẽ chắc chắn chứng được đạo quả”.

Sau đó đôi bạn đến gặp Giáo chủ Sanõjaya và nói rằng:

“Thưa thầy, thầy đã hay chăng có một bậc Toàn giác xuất hiện trên đời, đang ban bố Chánh pháp làm cho những môn đồ của Ngài sống một đời sống trong sạch, giải thoát? Mời thầy hãy cùng chúng tôi đến yết kiến đấng Toàn giác!”.

Nhưng Giáo chủ Sanõjaya đã không quan tâm đến những lời yêu cầu chơn thành của hai người đệ tử. Ngược lại ông còn khuyến dụ Kolita Moggallãna và Upatissa lãnh đạo những tùy tùng cũ của mình lập ra một trường phái mới, ngang hàng với ông.

Nếu đối bạn này chấp thuận, họ sẽ trở thành những bậc Tôn sư, thụ hưởng oai danh của các hàng Giáo chủ.

Nhưng Kolita Moggallãna và Upatissa đã bày tỏ lòng dứt khoát, không còn muốn dính mắc với bất cứ danh vị gì trong cõi đời, dù cho cao cả đến đâu đi nữa.

Đôi bạn trí thức đã nhiều lần lập lại quyết tâm cuối cùng không lay chuyển của họ, để vị thầy cũ ấy thấy rằng chẳng còn cách nào lung lạc được họ nữa.

Rốt cuộc Giáo chủ Sanõjaya đành chịu thất vọng. Ông rất khổ tâm trước sự ra đi của hai đệ tử xuất sắc này. Ông buồn bực la lên rằng:

– Ta không thể làm được! Ta không thể làm được! Ta đã là một bậc Tôn sư từ bao nhiêu năm qua. Ta có đông đảo tín đồ. Ta không thể trở thành hàng đệ tử! Như thế chẳng khác nào ta đem cái hồ rộng lớn đổi lấy một vũng nước chật hẹp tầm thường!

Nhất thời tâm hồn ông bị xung đột giữa hai ước vọng: Ước vọng đạt được Thánh quả và ước vọng muốn hưởng thụ địa vị cao sang. Và ước vọng thứ hai (thuận với lòng ham muốn) đã thắng thế, khiến ông hoàn toàn bất chấp những lời khuyên của đôi đệ tử thông thái.

Thuở ấy, Sanõjaya có khoảng năm trăm môn đồ. Khi những môn đồ này hay tin Kolita Moggallàna và Upatissa đã quyết định đến quy y Phật, tất cả đồng loạt muốn đi theo. Một nửa số ấy suy nghĩ “Rồi đây Sanõjaya sẽ còn lại một mình” nên không nỡ, chỉ đi một đoạn đường, rồi quay trở lại.

Nhưng đã muộn, Giáo chủ Sanõjaya trước cảnh mất hết môn đồ, lại bị phiền não, thất vọng lẫn hoang mang công phạt, nên đã uất ức hộc máu tươi mà chết.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/07/2018(Xem: 4561)
Dù hy vọng có mong manh đến đâu nó cũng không dễ bị dập tắt Ai biết điều diệu kỳ nào bạn có thể được ban tặng Khi bạn có đức tin Bằng cách nào đó bạn sẽ được ban tặng phép mầu Đây là bốn câu thơ trong bài nhạc WHEN YOU BELIEVE mà tôi thích được nghe và ngân nga âm hưởng theo mỗi khi cô ca sĩ Whitney Houston hát, vì nó gợi cho tôi nhớ những phép mầu tôi đã được nhận khi tìm đường sang quốc gia thứ ba và sống đến nay. Có biết bao người đã kể, đã viết về sự mầu nhiệm hiển linh từ Quán Thế Âm Bồ Tát, nhưng theo tôi nghĩ trong mỗi một câu chuyện chỉ có đương sự trong cuộc mới thấu hiểu nó diệu kỳ đến thế nào cho đời mình mà thôi, còn đôi khi dù có nói ra chưa hẳn nhiều người đã tin và còn cho là mê tín. Whitney Houston đã từng nói: “Bạn phải là một đứa con của Chúa mới có thể hiểu được chiều sâu của bài hát này”. Đức tin luôn mang lại cho con người sức mạnh thần kỳ để vượt qua những khó khăn tưởng chừng như vô vọng, ý nghĩa và câu chuyện về cuộc đời Thánh nhân Moise đã lắng đ
05/07/2018(Xem: 7766)
Sự Kiện11/6/1963 - Rùng mình nghe Bí Mật từ những Nhân Chứng Sống - không thể tin được
01/06/2018(Xem: 29686)
Nhằm tạo một cơ hội sinh hoạt chung để chia sẻ, học hỏi, thảo luận một số đề tài liên quan đến công việc Hoằng pháp, Giáo dục, Văn học Nghệ thuật Phật Giáo, và Ra Mắt Sách chung, một buổi sinh hoạt CÓ MẶT CHO NHAU sẽ được tổ chức tại Viet Bao Gallery, 14841 Moran St. Westminster, CA 92683, vào lúc 4:30--8:30 Chiều, Thứ Bảy, ngày 2 tháng 6, 2018.
17/04/2018(Xem: 3967)
Bodhisattva (Sanscrit), Bodhisat(Pali). Viết trọn chữ theo tiếng Phạn là: Bồ Đề Tát Đỏa. Bồ Đề, Bodhi là Chánh Giác. Tát Đỏa, Sattva là chúng sanh. Bậc đắc quả vị Phật nhưng còn làm chúng sanh để giác ngộ chúng sanh. Bậc đã được tự giác, chứng quả Giác Ngộ, Bồ Đề, một bậc nữa là chứng quả vị Phật, Thế Tôn, bèn chuyễn phương tiện ra đi cứu độ chúng sinh. Giống như trường hợp của Đức Phật Thích Ca đã trãi qua những đời trước làm Bồ Tát. Đến đời sau rốt tham thiền nhập định dưới cội Bồ Đề mới thành Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác.
15/12/2017(Xem: 137222)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
01/08/2017(Xem: 5062)
Sơ Lược về Bồ Tát trong Nguyên Thủy, Đại Thừa và ảnh hưởng của Bồ Tát ở Việt Nam vào Thế Kỷ 19 và 20 , bài của Nguyễn Thúy Loan
23/06/2017(Xem: 6782)
Suốt ngày 22 tháng 6 năm 2017 vừa qua, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, nhân mùa An Cư Kiết Hạ năm nay, tôi để tâm đọc quyển sách nầy trong vô cùng trân trọng, sau khi nhận được sách gửi tặng từ Thượng Tọa Thích Minh Định. Xin vô cùng niệm ân Thầy. Đọc sách, Kinh, báo chí v.v… vốn là niềm vui của tôi tự thuở nào chẳng biết,
28/05/2017(Xem: 11142)
Giáo lý đạo Phật là gì? Giáo lý đạo Phật là phương tiện để điều trị thân bệnh và tâm bệnh, là dược liệu của sự chân thật giúp cho người bệnh hiểu rõ bản chất của sự thật, của chân tâm để đạt đến sự giác ngộ rốt ráo. Chúng sinh do tâm bệnh nên có thân bệnh phát tác và mãi trong chuỗi dài sinh tử luân hồi, con người phải trải qua bốn giai đoạn là sinh, già, bệnh, chết; là quy luật tất yếu của thế giới sinh – diệt, chúng sinh nào muốn liễu sinh thoát tử, phải điều trị bệnh bằng các bài thuốc mà đức Phật đã chỉ dạy.
28/07/2016(Xem: 4628)
Ở Việt Nam khi nói đến mùa mưa bão, người ta thường nghĩ đến khúc ruột miền Trung thường nhiều hơn. Thế nhưng, từ khi thành phố Đà Nẵng dựng tôn tượng lớn Bồ Tát Quán Thế Âm thì những cơn bảo lớn nguy hiểm ít đi vào vùng đất nầy, có khi đi gần vào đến bờ thì chuyển hướng ra Bắc hoặc vào Nam rồi bão tan. Không p
07/06/2016(Xem: 9557)
Nam Mô Bồ Tát Thường Lắng Nghe, Quán Thế Âm có nghĩa là lắng nghe một cách sâu sắc, trọn vẹn những âm thanh, tiếng nói của cuộc sống, cuộc đời. Chữ Quán ở đây hàm nghĩa lắng nghe trong sự hiểu biết cộng với sự quan sát sâu sắc của lòng yêu thương từ ái. Bồ Tát Quan Thế Âm là vị Bồ Tát đã được người đời nghĩ tới và niệm danh hiệu của Ngài vì Ngài đã nguyện luôn lắng nghe tiếng kêu thương của cuộc đời. Không chỉ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]