Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

41. Hòa thượng giả bị phạt

06/04/201114:36(Xem: 3754)
41. Hòa thượng giả bị phạt

TRUYỀN THUYẾT VỀ BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM
Diệu Hạnh Giao Trinh dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính và giới thiệu

41. HÒA THƯỢNG GIẢ BỊ PHẠT

Ngày xưa có một nhà phú hộ, lớn tuổi rồi mới sinh được đứa con muộn, đặt tên là Thừa Tài.

Thời gian qua như thoi đưa, 18 năm sau Thừa Tài trở thành một thanh niên chơi bời phóng đãng, cả ngày ở ngoài đường rượu chè trai gái, chơi hoa bẻ cành, tiêu phí không biết bao nhiêu là tiền bạc. Lão phú hộ cưng con như ngọc, không những không trách mắng lấy nửa câu mà còn đắc ý nói rằng: “Tiền đi rồi tiền trở lại mà!”

Năm ấy lão phú hộ qua đời, gia tài kếch xù kia để lại hết cho Thừa Tài. Từ đấy, Thừa Tài mặc sức tiêu phí, nào cờ bạc, nào lầu xanh, càng chơi bời càng sa lầy, không thể nào quay về con đường thiện được nữa. Không đến ba năm sau, gia tài to lớn của cha để lại đã tiêu tán sạch sành sanh!

Từ một anh công tử con nhà phú hộ từ bé đến lớn chỉ biết ăn thịt uống rượu, trau tria chải chuốt, nay Thừa Tài đã biến thành một kẻ áo quần lam lũ, tóc tai bờm xờm như ăn mày, láng giềng không buồn ngó ngàng đến, bạn bè cũ cũng xoay mặt làm ngơ, ai nhìn cũng thấy phát ghét.

Thừa Tài nghĩ:

– Tiếp tục sống kiểu này thì thật là sống cũng như chết, phải tìm một con đường khác mới được.

Một hôm, hắn thấy một vị xuất gia đến làng của mình hóa duyên, được bất luận người giàu hay nghèo, ai ai cũng kính cẩn cúng dường. Thừa Tài thấy thế tròng mắt láo liên, nghĩ ra một kế:

– Đúng rồi! Giả dạng làm thầy chùa đi xin tiền, đúng là làm ăn không cần vốn!

Thế là hắn cạo đầu nhẵn thín, ăn mặc như thầy tu, đi sang làng khác hóa duyên. Nhưng mấy ngày sau, bụng no thì có no nhưng cặp đùi thì nhức nhối, chân đi khập khiễng, hắn biến thành một “ông thầy cà thọt”.

Hóa duyên thật là khổ, Thừa Tài bèn nghĩ đến chuyện để tóc lại. Hôm ấy đang đi trên đường, bỗng thấy một ni cô trẻ tuổi đi ngang, chắp tay nói với hắn:

– Chưa thoát được tục lụy, đến Nam Hải lễ Phật, trước tiên phải bỏ ác, sau mới trở thành thiện.

Thừa Tài thấy đột nhiên xuất hiện một ni cô xinh đẹp mỹ miều, đến gặp mình nói chuyện có câu có kệ thì lập tức tươi cười hí hởn, tà niệm nảy sinh. Vị ni cô trừng mắt một cái và bỏ đi lập tức, Thừa Tài chưa đi được mấy bước cà thọt mà người đẹp đã biến mất đằng xa.

Thừa Tài nhìn theo bóng dáng của cô, hai con mắt cứ xoay tít:

– A, Nam Hải Phổ Đà Sơn, chính là chốn Cực Lạc của các đệ tử nương thân cửa Phật đây mà!

Càng nghĩ hắn càng thích thú, thế là hắn vượt biển đến đảo Phổ Đà. Tuy nhiên, hắn biết mình là một ông sư giả, không dám đến các chùa lớn xin tá túc mà chỉ dựng một túp lều tranh nhỏ ở ngã rẽ đường Ngọc Đường, bày một bức tượng Bồ Tát Quán Âm, gõ mõ thật to và tụng kinh Phật thì lí nhí trong họng, hóa duyên với khách hành hương qua lại.

Quả nhiên chuyện “làm ăn” của hắn cũng phát đạt, cuộc sống trở nên dư dả, nhưng tâm thì càng ngày càng gian tà. Không lâu sau, hắn bỏ túp lều tranh và chỉ chuyên môn theo đuổi các nữ hương khách trẻ tuổi, làm ô uế cửa Phật bằng những hành động đồi phong bại tục.

Một hôm Thừa Tài đến động Triều Âm, nham nhở nhìn ngắm những cô khách hành hương trẻ, có lúc dùng lời cợt nhã sàm sỡ để trêu ghẹo, có khi tìm cách kề vai sát vế, khiến cho các cô sợ hãi lúng túng, chỉ ráng trốn tránh mà không dám phản đối ra mặt.

Từ rừng Trúc Tím bỗng nhiên có một ni cô trẻ tuổi bước ra, trừng mắt nhìn Thừa Tài một cái rồi quay đi về phía động Quán Âm.

Thừa Tài nhận ra vị ni cô xinh đẹp mà mình đã có lần gặp bèn la lớn:

– Cô ấy đây rồi! Đúng là “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ” mà!

Ba hồn chín vía của hắn đê mê, con mắt háo sắc của hắn như bị thôi miên, rồi như thể có một sợi dây vô hình nào kéo đi, hắn đi theo ni cô không rời nửa bước.

Một ni một tăng, người trước người sau, đi từ Quán Âm Động đến tảng đá Bàn Đà ở Tây Thiên, đi ngang Am Mai Phúc, vượt qua tảng đá có khắc chữ Tâm, chùa Phổ Tế, động Triều Dương, rồi ven theo bãi cát ngàn bộ (Thiên bộ sa), xuyên qua đình Vọng Hải, đi ngược về thung lũng cát bay (Phi sa áo), và cuối cùng đến động Phạm Âm.

Đi một vòng như thế khiến Thừa Tài nhức nhối tới long cả xương chân, mũi thở phì phì.

Trời bắt đầu tối, xung quanh không có một bóng người. Thừa Tài thấy ni cô ngồi xuống một cái lan can bằng đá, cúi đầu chăm chú nhìn cảnh chiều trên biển, bèn bổ xông tới như con chó đói. Nào ngờ đầu hắn bị va vào thành đá lan can nghe cái “rầm”, máu chảy dầm dề. Vị ni cô nọ đã ngồi trên hoa sen từ bao giờ, đưa tay về phía Phạm Âm động phất nhẹ, từ trong động chợt vọt ra một ngọn sóng cao cả trăm trượng, cuốn Thừa Tài ra biển Liên Hoa biến thành con cá heo.

Thừa Tài hối hận cũng đã muộn. Từ đó mỗi kỳ nước lũ mùa xuân người ta lại nghe “bõm, bõm”, đó là con cá heo từ ngoài biển khơi hướng về Phổ Đà Sơn mà lễ bái, cầu xin Bồ Tát Quán Âm phát từ bi tâm xá tội cho nó. Nhưng tội nó tà tâm làm chuyện xấu xa, ô uế đất Phật hẳn còn phải chịu hình phạt đó thêm nhiều đời nữa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/03/2011(Xem: 7033)
Ngài Đại Thế Chí Pháp Vương Tử cùng với 52 vịBồ-tát đồng tu một pháp môn cùng đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật : - Tôi nhớ hằng sa kiếp trước có Đức Phật ra đờihiệu Vô Lượng Quang
20/03/2011(Xem: 12588)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sát và nghiên cứu rất nhiều.
23/02/2011(Xem: 6380)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
21/01/2011(Xem: 4249)
Bồ tát Di Lặc, vị Phật tương lai, có một vị trí quan trọng trong nền tín ngưỡng và văn hoá Phật Giáo. Di Lặc là vị bồ tát duy nhất được các tông phái Phật Giáo, từ tiểu thừa, đại thừa và mật tông tôn kính. Các kinh điển trong cổ ngữ tiếng Phạn Pali và Sanskrit, cũng như kinh tạng đại thừa chữ Hán và tiếng Tây Tạng đều có nói đến vị Phật tương lai này.
13/01/2011(Xem: 3515)
Cùng với thầy của mình là Bồ Tát Di Lặc, Vô Trước là khai tổ của Du Già Tông, hay Duy Thức Tông, một trường phái của Đại Thừa Phật Giáo. Ba người con trai lớn nhất, đều gọi là Thiên Thân (Vasubandhu), sinh ra ở Purusapura (Peshwar), là những thành viên của gia đình Kiều Thi Ca (Kausika) thuộc dòng dõi Bà La Môn, Ấn Độ. Tất cả ba người đều đã trở thành những Tỳ Kheo Phật Giáo. Người em trai út của Vô Trước được biết là Tỉ-Lân-Trì-Bạt-Bà (Virincivatsa), trong khi người em giữa được biết đơn thuần là Thiên Thân (Vasubandhu), tác giả của Duy Thức Tam Thập Tụng.
04/01/2011(Xem: 3201)
Quán Âm hay Quán Thế Âm là tên gọi của một vị Bồ Tát nổi tiếng trong hệ thống Phật giáo Bắc Truyền (vẫn được thậm xưng là Đại Thừa) khắp các xứ Trung Hoa, Hàn quốc, Nhật Bản, Tây Tạng, Mông Cổ và cả Việt Nam. Chữ Phạn của tên gọi này là Avalokitvesvara, thường được dịch sát là Quán Tự Tại. Chữ Tự Tại (Isvara) này không hề mang nghĩa thanh thản độc lập như nhiều người vẫn nghĩ. Nó là một từ tố thường thấy ngay sau tên gọi của các vị thần Ấn Độ, một chút dấu vết của Ấn Giáo, xa hơn một tí là Bà La Môn giáo thời xưa. Nói mấy cũng không đủ, với phương tiện Internet ngày nay, người muốn biết xin cứ Online thì rõ. Nãy giờ chỉ nói cái tên, cái ý nghĩa hay vai trò của khái niệm Quán Thế Âm mới là quan trọng.
19/12/2010(Xem: 5882)
Qua kinh sách thuộc truyền thống Đại thừa ta được biết mỗi vị Phật thường có hai vị Bồ tát làm thị giả. Nếu như Đức Phật A Di Đà có Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí làm thị giả thì một trong hai vị thị giả chính của Đức Phật Thích Ca là Văn Thù Sư Lợi, đại biểu cho trí tuệ siêu việt. Bồ Tát Văn Thù đã xuất hiện hầu như trong tất cả các kinh điển quan trọng của Phật giáo Đại thừa: Hoa Nghiêm, Thủ Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Duy Ma Cật,… như là một nhân vật thân cận nhất của Đức Phật Thích Ca, khi thì chính thức thay mặt Đức Thế Tôn diễn nói Chánh pháp, có lúc lại đóng vai tuồng làm người điều hành chương trình để giới thiệu đến thính chúng một thời pháp quan trọng của Đức Bổn Sư.
19/12/2010(Xem: 4344)
Từ trước đến nay, những khuynh hướng bài bác Đại Thừa -cả trong lẫn ngoài Phật giáo- thường cho rằng kinh điển Đại Thừa là ngụy tạo, từ đó họ cũng hạ bệ luôn tất cả những vị Bồ Tát đã được quần chúng Phật tử lâu đời tôn thờ kính ngưỡng -đặc biệt là Bồ Tát Địa Tạng- coi đó như là những nhân vật hư cấu, sản phẩm của đầu óc tưởng tượng phong phú của người Trung Hoa. Tuy nhiên các học giả nghiên cứu về Phật giáo cổ Ấn Độ hồi gần đây đã xác định rằng tín ngưỡng tôn thờ Bồ Tát Địa Tạng (Kshitigarbha) đã được khai sanh tại Ấn Độ rất lâu đời, có thể là vào khoảng đầu thế kỷ thứ nhất hoặc thứ hai sau công nguyên (C.E.), cùng một lúc với sự phát triển mạnh mẽ của khuynh hướng Phật giáo Đại Thừa, (2) mà bằng chứng cụ thể là Bồ Tát Địa Tạng và những kinh sách liên quan về Ngài đã được đưa vào chương trình học tập, nghiên cứu tại Đại học cổ điển Phật giáo nổi tiếng Nalanda xứ Ma Kiệt Đà.
14/12/2010(Xem: 2873)
Bồ Tát Quán Thế Âm đang thực sự có mặt bên cạnh chúng ta mang sứ mệnh Bồ Tát vào đời để cứu vớt nhân sinh qua cơn khổ nạn hay chỉ là một nhân vật huyền thoại tôn giáo? Với những người mang nặng tinh thần duy lý cho rằng Đạo Phật không hề đặt cơ sở trên những niềm tin mù quáng và do đó, tin vào sự cứu độ của một tha lực bên ngoài –ví dụ như Quán Thế Âm Bồ Tát- theo họ là một hình thức dị đoan mê tín, khó chấp nhận.
03/12/2010(Xem: 13544)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]