Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đại Mục Kiền Liên và Ma vương

23/10/201204:23(Xem: 4338)
Đại Mục Kiền Liên và Ma vương

ĐẠI MỤC-KIỀN-LIÊN VÀ MA-VƯƠNG
Toàn Không

muckienlienvamavuong-toankhongCó một thời gian Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên phụ trách trông coi việc dựng thiền-thất tại vườn Lộc-Dã; một hôm trong lúc Tôn-giả đang đi kinh hành trên khoảng đất trống, thì Ma-Vương hóa hình nhỏ xíu chui vào trong bụng của Tôn-giả, lúc đó Tôn-giả nghĩ rằng: “Quái lạ, hình như ta đã nuốt phải vật gì vào trong bụng? Ta nên nhập Như-kỳ tưởng-định để nhìn vào bụng xem là vật gì?”Nghĩ rồi, Tôn-giả đi đến cuối đường kinh hành, bèn ngồi kiết-già nhập định mà nhìn vào bụng mình thì thấy Ma-Vương đang ở trong đó; Tôn-giả bèn ra khỏi định, rồi nói rằng:

- Này Thiên Ma, ngươi hãy đi ra mau, đừng sống mãi trong sự không thiện lợi không thiện ích mà ngươi phải thác sinh vào cõi dữ chịu vô lượng khổ.

Khi ấy Ma-Vương bèn nghĩ: “Sa-môn này không thấy không biết, thế mà lại nói như vậy, đúng là nói mò; dù Tôn-Sư ông có đại như-ý túc, có đại oai-đức, có đại oai-thần, cũng không thể thấy mau biết lẹ như vậy, huống chi là đệ-tử mà thấy biết mau lẹ được sao?”

Tôn-giả lại nói:

- Ta lại biết trong ý của ngươi nghĩ rằng: “Sa-môn này không thấy không biết, thế mà lại nói như vậy, đúng là nói mò; dù Tôn-Sư ông có đại như-ý túc, có đại oai-đức, có đại oai-thần, cũng không thể thấy mau biết lẹ như vậy, huống chi là đệ-tử mà thấy biết mau lẹ được sao?”

Nghe Tôn-giả nói như vậy, Ma-Vương nghĩ: “Sa-môn này đã thấy biết ta, nên mới nói những điều xảy ra, và còn biết cả ý nghĩ của ta nữa; ta không ra không được”.Rồi từ trong bụng, Ma-Vương chui lên miệng của Tôn-giả, và vọt ra hiện hình người đứng trước mặt Tôn-giả, Tôn-giả bảo:

- Này Ma Ba-Tuần, thuở xa xưa, vào thời đức Phật Giác-Lịch-Câu-Tuần-Đại. Lúc đó ta là đại Ma-Vương tên Ác, ta có cô em tên là Hắc, ngươi chính là con trai của cô Hắc. Này Ma Ba-Tuần, vì lẽ đó cho nên ngươi là cháu gọi ta bằng bác.

Ma Ba-Tuần, thuở ấy đức Phật Giác-Lịch-Câu-Tuần-Đại có hai đại đệ-tử tên là Âm và Tưởng.

Do ý nghĩa nào một người được gọi là Âm? Tôn-giả Âm: kiếp trước đó sống ở cõi Phạm-Thiên, có tiếng nói vang xa cả nghìn thế giới; lại không ai có âm thanh ngang bằng, cho nên Tôn-giả ấy được đức Phật Giác-Lịch-Câu-Tuần-Đại đặt tên là Âm.

Do ý nghĩa nào một người có tên là Tưởng? Vì Tôn-giả Tưởng nương vào thôn-ấp mà du hành, Tôn-giả luôn luôn giữ thân, thu nhiếp các căn, giữ vững chính niệm; Ngài thường đến chỗ vắng hoặc dưới gốc cây trong rừng vắng, hoặc đến chỗ yên tĩnh ngồi kiết-già nhập tưởng-tri diệt-định. Lúc ấy có vài người đi ngang qua thấy Ngài ngồi ngay như khúc cây khô, thân thể không cử động, lá cây vướng mắc cả trên đầu cổ, họ bèn nghĩ: “Người này ngồi chết trong rừng vắng này, chúng ta nên làm phúc, nhặt cỏ và củi khô chất đống bao thân thể mà đốt thiêu”; họ bèn làm như vậy, xong bỏ đi.

Tôn-giả Tưởng sau một đêm, sáng hôm sau đập tro mà ra, phủi bụi rồi du hành trở lại về thôn-ấp như thường lệ. Những người trước kia đã gặp Tôn-giả, khi thấy Tôn-giả lại ngồi (nhập định) ở chỗ khác, họ bèn nghĩ: “Trước kia chúng ta đã hỏa thiêu người này rồi sao không chết mà lại ngồi tưởng ở chỗ khác này?”,vì lẽ đó cho nên mọi người gọi Ngài là Tưởng.

Lúc ấy ta là đại Ma-Vương tên Ác nghĩ rằng: “Sa-môn này bị trói chặt, bị tuyệt chủng, không gia đình con cái; Sa-môn này ngồi (thiền) đắm đuối giống như con mèo ngồi rình bên hang chuột, mải miết say đắm; Sa-môn này đắm đuối cái gì, mục đích gì, mong muốn điều gì, ta chẳng biết người này từ đâu đến và sẽ đi về đâu, ta hãy dạy bảo một số người đến phá không cho ngồi, biết đâu người này chẳng nổi tâm giận dữ để ta dễ lợi dụng”.Nghĩ như vậy: ta liền đi xúi giục một số người đến chửi rủa mắng nhiếc thậm tệ, phá không cho được ngồi yên; thậm chí một số người dùng đá ném, dùng cành cây đánh đập, làm rách áo, và gây thương tích cho Sa-môn ấy.

Tôn-giả Tưởng, đệ-tử của Phật Giác-Lịch-Câu-Tuần-Đại mang đầu mặt thương tích, áo rách tả tơi đi đến chỗ Phật đang thuyết pháp; khi Ngài trông thấy học trò đi đến, Ngài bảo đại-chúng: “Đại chúng có thấy chăng? Ác Ma đã xúi giục một số người đến phá Sa-môn tinh tấn tu hành để hòng mong lợi dụng. Này chư vị đệ-tử, hãy để tâm tương ưng với Từ tỏa khắp một phương, thành tựu an trụ. Cũng vậy, hai, ba, bốn cho đến mười phương, không oán hận, không si mê não hại, rộng lớn bao la. Trải khắp tất cả thế-gian, tất cả thời gian, thành tựu an trụ; tâm tương ưng với Bi, Hỷ, và Xả cũng như vậy, với tâm như thế khiến ác Ma không thể lợi dụng được”.

Vì vậy ta không thể lợi dụng được, ta lại nghĩ: “Bằng phương pháp ấy vô hiệu quả, ta phải dùng cách khác, làm cho tâng bốc tâm của các Sa-môn, biết đâu họ chẳng nổi tà tâm để ta dễ dàng lợi dụng”.Nghĩ vậy, ta bèn đi xúi giục một số con gái đẹp đến lễ bái hầu hạ Sa-môn.

Các Sa-môn sau khi được các người con gái đẹp lễ bái cúng dường v.v.. rồi, họ đi đến chỗ Phật Giác-Lịch-Câu-Tuần-Đại. Ngài bảo các đệ-tử: “Đại chúng thấy chăng? Ác Ma xúi giục các người con gái đến lễ bái, hầu hạ và cúng dường, ác Ma lại còn xúi những người con gái đánh mắt đưa tình, nũng nịu, õng ẹo trước Sa-môn, để mong Sa-môn nổi dục tâm hòng dễ dàng lợi dụng. Này các đệ-tử, hãy quán sát các hành là vô thường không bền, các pháp thịnh suy không chắc chắn như bọt nước, như cơn gió thoảng; hãy quán các pháp là không thật như ánh trăng đáy nước, như bóng trong gương. Hãy quán thân là ô uế dơ bẩn thối tha ghê tởm, quán vô dục, quán ly xả, quán đoạn diệt tất cả mọi thứ để cho ác Ma không thể lợi dụng được”.

Này Ba-Tuần, vì thế ta không thể làm gì được Tôn-giả Tưởng, nên bấy giờ ta hóa hình làm một đứa trẻ, tay cầm cây gậy đứng bên đường. Khi đức Phật Giác-Lịch-Câu-Tuần-Đại đi khất thực ngang qua, có Tôn-giả Âm đi theo phía sau. Ta thấy thế, bèn đánh Tôn-giả Âm một gậy, làm vỡ đầu, và máu chảy ướt cả mặt. Tôn-giả Âm bị đánh bể đầu chảy máu, vẫn đi theo sau đức Phật như bóng với hình, không rời xa, cũng không kêu than nói năng chi cả.

Sau một lúc, đức Phật xoay nhìn về phía sau bên phải như cái nhìn của một voi chúa không sợ hãi, không giận dữ, và quán sát. Ngài nhìn thấy Tôn-giả Âm đầu bị chảy máu ướt đỏ cả mặt, bèn nói: “Ác Ma thật hung ác này có đại oai lực, ác Ma này không biết đủ”;Ngài vừa nói dứt, thì ngay lúc đó, như tên bắn, chớp nhoáng, ta liền bị đọa vào đại Địa-ngục Vô-Khuyết.

Trong Địa-ngục Vô-Khuyết có Quỷ-ngục đến chỗ ta và nói: “Ngươi nên biết nếu đinh hiệp đinh (đinh sắt 100 cái mà đóng vào thân thể) phải mãn hạn một trăm năm”(bằng 100,000 năm thế-gian).

Ma Ba-Tuần nghe nói như vậy, trong lòng hết sức rúng động, sợ khủng khiếp, bèn biến mất.,.

Toàn Không

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/01/2013(Xem: 3530)
Hạnh nguyện Phổ Hiền, tổng cộng có mười hạnh nguyện. Phần trước đã giảng cho quí vị bốn hạnh nguyện rồi. Mỗi một hạnh nguyện, chúng ta đều thường niệm. Ở trong nhà Phật, các tổ sư đại đức đem mười cương mục này sắp xếp vào thời khóa tụng sáng tối, cho nên mọi người đều niệm rất thuộc: Nhất giả lễ kính chư Phật, nhị giả xưng tán Như Lai, v.v… đều rất thuộc. Nhưng [nếu] không thực hiện, chỉ có niệm như vậy thì không có ý nghĩa gì cả, chỉ gieo trồng được thiện căn trong A Lại Da Thức.
11/12/2012(Xem: 5382)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
11/10/2012(Xem: 10702)
Cũng vào lúc bấy giờ, Đại bồ tát Quan Tự Tại thâm nhập pháp tu Bát nhã ba la mật đa sâu xa, thấy năm uẩn đều không tự tánh. Sau Phật, Tâm Kinh dẫn chúng ta đến gặp Bồ tát Quan Tự Tại. Tiếng Tây Tạng gọi Bồ tát là jangchub sempa. Jangchub (Phạn: bodhi), có nghĩa là “giác ngộ”, và sempa (Phạn: sattvà), có nghĩa là “anh hùng” hay “người”. Gộp chung lại thì từ jangchub sempa có nghĩa là “vị anh hùng giác ngộ”. Trong chữ jangchub - “giác ngộ” - âm đầu tiên là ị ang ứng vào sự chiến thắng đoạn diệt mọi sức mạnh chướng ngại, còn âm thứ nhì, chub, có nghĩa là thành tựu trí tuệ viên mãn.
26/09/2012(Xem: 8139)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giản là phẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào. Nhưng thâm nghĩa của Phổ Môn là tất cả mọi người trong thế gian này ai ai cũng đều được Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong lòng của họ.
17/09/2012(Xem: 8268)
Một thanh niên hỏi tôi: “Có người nói Bồ tát Quan Âm không có thật, là tín ngưỡng của Bà La Môn phải không thưa thầy?”. Tôi cười đáp: “Bồ tát Quan Âm có thật hay không tùy thuộc vào hai điều kiện: 1.Niềm tin. 2.Tự mình nghiên cứu tìm hiểu...
11/09/2012(Xem: 3331)
1. Con xin mở rộng lòng thương và tìm cách bảo vệ sự sống, niềm tin, hạnh phúc của mọi người và mọi loài. 2. Con xin mở rộng tầm hiểu biết, để có thể thấu rõ được gốc rễ khổ đau của mọi người, mọi loài mà tìm cách nâng đỡ và hộ trì. 3. Con xin nguyện từ bỏ những tập khí tham ái, hờn giận, trách móc, phê bình, chỉ trích và bạo động, để con có thể vui sống với mọi người và mọi loài.
25/07/2012(Xem: 11089)
Phương Thức Thực Hành Hạnh Bồ Tát (Bodhicharyàvatàra) là Thi phẩm bằng tiếng Phạn của Tôn giả Tịch Thiên (Sàntideva) khi ngài tu học ở Học viện Phật giáo Nalandà, Ấn độ vào thế kỷ thứ bảy Tây lịch. Đây cũng là tác phẩm Tạng ngữ vô cùng quan trọng, áp dụng vào chương trình học tập cho các tu sĩ Tây Tạng.
04/04/2012(Xem: 3697)
Bồ-tát Quán Thế Âm vốn có tên tiếng Phạn là Avalokiteśvara. Đó là một vị Bồ-tát mà tại các nước Á châu ai cũng biết, vì Ngài có bổn nguyện từ bi cứu độ chúng sanh vô cùng rộng lớn. Trong tiếng Hán, Ngài còn được gọi với các tên như: Quán Tự Tại, Quán Thế Tự Tại, Quán Thế Âm Tự Tại, Quán Thế Tự, Khuy Âm, Hiện Âm Thanh, Quán Âm… Ngoài ra, còn gọi là Cứu Thế Bồ-tát, Cứu Thế Tịnh Thánh (Duh!-kharaksaka), hoặc Thí Vô Úy Giả (Abhayamdada), hoặc Thí Vô Úy Giả Liên Hoa Thủ (Padmapāni), Phổ Môn (Saman-tamukha), Đại Bi Thánh Giả (Mahākārunikamuni).
29/01/2012(Xem: 8221)
Bồ tát Quán Thế Âm, hình ảnh thân thiết gần gũi đối với mọi tầng lớp quần chúng, nhất là những người Á Đông. Nhiều người chưa quy y Tam Bảo, chưa trở thành Phật tử chính thức cũng thường xưng niệm danh hiệu và thỉnh tôn tượng Đức Quán Thế Âm Bồ tát để phụng thờ, lễ bái hằng ngày trong nhà. Ở Việt Nam, hình ảnh Ngài còn ảnh hưởng sâu rộng trong văn hóa dân gian đến độ, chúng ta đi đâu, về đâu trên đất nước thân thương này cũng đều thấy tôn tượng Ngài.
13/01/2012(Xem: 8667)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567