Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cuộc đời của tổ sư Long Thọ

07/10/201114:59(Xem: 3598)
Cuộc đời của tổ sư Long Thọ
bo-tat-long-tho
CUỘC ĐỜI CỦA TỔ SƯ LONG THỌ

Nguyên tác: Biography of Nagarjuna - Alexander Berzin
Tuệ Uyển chuyển ngữ

Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không từ Văn Thù Sư Lợi, trong khi Vô Trước (cùng với Thiên Thân) truyền thừa những giáo nghĩa bao la của những sự thực hành bồ tát từ Di Lặc.

Long Thọ - Nagarjuna sinh ra trong một gia đình bà la môn chắc chắn khoảng giữa đầu hay đầu thế kỷ thứ hai sau Tây lịch ở miền Nam Ấn Độ, trong vương quốc Vidarbha, ngày nay là vùng Maharashatra và Andhra Pradesh. Ngài đã được tiên đoán trước trong nhiều kinh điển khác nhau, như Kinh Lăng Già. Lúc sinh ra, một vị tiên tri dự đoán ngài sẽ chỉ sống trong bảy ngày, nhưng nếu cha mẹ ngài cúng dường đến một trăm vị sa môn, ngài có thể sống đến bảy tuổi. Lo sợ cho sự sống của ngài, vào lúc bảy tuổi, cha mẹ Long Thọ-Nagajuna đưa ngài đến Đại học Tu viện Na Lan Đà ở miền Bắc Ấn, nơi ngài gặp vị đạo sư Phật giáo Saraha. Saraha nói với ngài rằng nếu trở thành một vị xuất gia và trì tụng mật ngôn A Di Đà, ngài sẽ sống trường thọ. Long Thọ-Nagajuna làm như thế và rồi thì gia nhập tu viện, nhận một tên là “Shrimanta.”

Tại Na Lan Đà, Long Thọ-Nagajuna học kinh điển hiển giáo và mật điển tantra với Ratnamati – một hóa thân của Văn Thù Sư Lợi – và, với Saraha, đặc biệt Tantra Bí Mật. Thêm nữa, ngài học thuật giả kim với một vị Bà la môn, và đạt đến khả năng biến sắt thành vàng. Dùng khả năng này, ngài có thể nuôi dưỡng những tu sĩ của Na Lan Đà trong nạn đói. Cuối cùng, Long Thọ-Nagajuna trở thành Viện trưởng của Na Lan Đà. Ở đấy, ngài đã tống xuất tám nghìn tu sĩ, những người không giữ gìn giới luật xuất gia một cách thích đáng. Ngài cũng đánh bại năm trăm người không phải Phật tử trong tranh luận.

Hai người trai trẻ, là hóa thân của những đứa con của long vương, đến Na Lan Đà. Họ có trong họ những hương thơm tự nhiên của trầm hương. Long Thọ-Nagajuna hỏi làm thế nào như thế và họ thú nhận với ngài họ là ai. Long Thọ-Nagajuna rồi thì yêu cầu tinh dầu trầm hương cho bức tượng của nữ Bồ Tát Tara và sự giúp đỡ của dòng dõi rồng để dựng chùa chiền. Họ trở lại thế giới rồng và yêu cầu cha của họ, và ông nói rằng ông chỉ có thể giúp nếu Long Thọ-Nagajuna đến thế giới của họ dưới biển để giảng dạy cho họ. Long Thọ-Nagajuna đã đi, tiến hành nhiều lễ cúng dường, và dạy cho loài rồng.

Long Thọ-Nagajuna đã từng biết rằng loài rồng có bộ Kinh Một Trăm Nghìn Bài Kệ Bát Nhã Ba La Mật Đa và thỉnh cầu cho một bản. Khi Đức Phật thuyết giảng về Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa, tuệ trí toàn thiện, hay tỉnh thức phân biệt sâu xa, loài rồng đã đem về long cung để bảo quản, chư thiên một bản khác, và những chúa dạ xoa của thịnh vượng một bản nữa. Long Thọ-Nagajuna đem về bản một trăm nghìn bài kệ, mặc dù long chúng giữ hai chương cuối cùng để bảo đảm rằng ngài sẽ trở lại để giảng dạy cho họ xa hơn. Sau này, hai chương cuối cùng được bổ xung vào với hai chương cuối cùng của Kinh Một Trăm Nghìn Bài Kệ Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đây là tại sao hai chương cuối cùng của hai văn kiện duyệt lại là giống nhau. Long Thọ-Nagajuna cũng đem về đất sét của rồng và xây dựng nhiều chùa chiền và tháp miếu với nó.

Một lần, khi Long Thọ-Nagajuna đang giảng dạy Bát Nhã Ba La Mật Đa, sáu con rồng đã đến và làm thành một bảo cái phía trên đầu ngài để che ngài khỏi nắng mặt trời. Do bởi điều này, ngài có tên là Long-Naga. Và từ sự kiện khả năng thiện xảo của ngài trong giảng dạy Phật Pháp đi thẳng tới trọng điểm của vấn đề, giống như những mũi tên của nhà cung thủ nổi tiếng Arjuna (tên một anh hùng của Ấn Độ cổ đại trong bộ kinh Ấn giáo Bhagavad Gita), ngài có tên là Arjuna. Vì thế, ngài trở thành được gọi là “Nagarjuna” hay Long Thọ.

Sau này Long Thọ đi lên miền Bắc Hải đảo (Bắc Lục địa) để giảng dạy. Trên đường, ngài đã gặp một số trẻ con đang nô đùa trên đường. Ngài tiên tri rằng một đứa trong chúng, tên là Jataka, sẽ trở thành một vị vua. Khi Long Thọ trở lại từ Bắc Hải đảo, cậu bé trong thực tế đã trưởng thành và trở thành vị vua của một vương quốc rộng lớn ở Nam Ấn. Long Thọ đã ở lại với vị vua trong ba năm, dạy dỗ ông, và sau đó dành những năm cuối cùng ở những nơi khác trong vương quốc ấy, tại Shri Parvata, ngọn núi thiêng liêng trông xuống ngày nay là Nagarjunakonda [1]. Long Thọ-Nagarjuna đã viết tác phẩm Quốc vương một Tràng Hoa Quý Báu – Bảo Hành Vương Chính Luận (Ratnavati). Đây cũng là vị vua mà Long Thọ viết tác phẩm Lá Thư Cho Một Người Bạn (Suhrllekha), vua tên là Udayibhadra.

Một số học giả phương Tây xác quyết Vua Udayibhadra với Vua Gautamiputra Shatakarni (trị vì 106- 130 sau Tây lịch) của triều đại Shatavahana (230 trước Tây lịch đến 199 sau Tây lịch), hiện nay là Andhra Pradesh. Một số xác quyết ông với vị vua kế là Vashishtiputra Pulumayi (130 – 158 sau Tây lịch). Thật khó khăn để xác định vị vua này một cách chính xác. Những vị vua triều đại Shatavahana là những người bảo trợ bảo tháp ở Amaravati, nơi Đức Phật thuyết Mật điển Thời Luân (Kalachakra Tantra) lần đầu tiên và nó gần Shri Parata.

Quốc vương Udayibhadra có một người con trai, Kumara Shaktiman, người muốn trở thành vua. Mẹ ông ta nói với ông rằng ông ta sẽ chẳng bao giờ có thể lên ngôi cho đến khi Long Thọ chết, vì Long Thọ và Quốc vương Udayibhadra có cùng tuổi thọ. Mẹ ông ta nói hãy thỉnh cầu Long Thọ cho thủ cấp của ngài và vì Long Thọ là người rất bi mẫn, không nghi ngờ gì nữa ngài sẽ đồng ý ban cho ông. Long Thọ thật sự đã đồng ý, nhưng Kumara không thể cắt đầu ngài với một thanh gươm. Long Thọ nói rằng trong tiền kiếp, ngài đã từng giết hại một con kiến trong khi cắt cỏ. Như một kết quả nghiệp báo, đầu của ngài chỉ có thể cắt rời với lá của của cỏ kusha. Kumara làm như thế và Long Thọ lìa đời. Máu từ cái đầu bị cắt đứt biến thành sửa và thủ cấp nói, “Bây giờ ta sẽ đi đến Cực Lạc Tịnh Độ, nhưng ta sẽ nhập vào thân thể này lần nữa.” Kumara đưa thủ cấp xa khỏi thân thể, nhưng như được kể lại rằng thủ cấp và thân thể đang đi đến gần lại với nhau mỗi năm. Khi chúng hợp lại, Long Thọ sẽ trở lại và giảng dạy lần nữa. Nói chung, Long Thọ đã sống sáu trăm năm.

Trong nhiều tác phẩm trên chủ đề kinh điển mà Long Thọ đã viết là

- Tập Họp Lý Luận, Collections of Reasoning - Nhập Trung Luận,
Madhyamakavata,
- Tập Họp Những Bài Kệ Tán, Collections of Praises.
- Tập Họp Những Giải Thích Mô Phạm, Collections of Explanations.

Sáu Tập Họp của Lý Trí hay Nhập Trung Luận là:

- Những Bài Kệ Căn Bản của Trung Quán Luận, Tỉnh Thức Phân Biệt
- Discriminating Awareness - Prajna-nama- mulamadhyamaka-karika.

- Tràng Hoa Quý Báu – Precious Galand – Ratnavati.
- Hồi Tránh Luận Thích – Bác Bỏ Chống Đối – Vigrahavyavarti.
- Thất Thập KhôngTính Luận – Bảy Mươi Bài kệ Tánh Không – Sunyatasaptati.
- Quãng Phá Kinh Danh – Vaidalya sutra nama.
- Lục Thập Tụng Như Ý Luận – Yuktishashtika.

Bao gồm Tán Dương Kệ Tập là:

- Pháp Giới Tán – Dharmadhatu stava.
- Chân Đế tán – Paramartha stava.
- Siêu Thế Gian tán – Lokatita stava.

Bao gồm Mô Phạm Thích Tập là:

- Giác Ngộ Tâm Luận – Bodhicittavana.
- Tập Kinh Luận – Sutrasamuccaya.
- Lá Thư cho Một Người Bạn – Suhrllekha.

Cũng được cho là của Long Thọ là vài luận giải về mật điển Tantra Bí Mật, bao gồm:

- Phương tiện Thực chứng giản lược – Pindikrta sadhana.

- Phương pháp Thiền quán trên Tầng bậc Đầu tiên của Đại toàn thiện Bí mật tantra phối hợp với nguyên văn của nó - Shri-guhyasamaja-mahayogatantra-utpattikrama-sadhana-sutra- melapaka

- Năm Tầng bậc (Tầng bậc Hoàn tất) – Pancakrama.

Đệ tử nổi tiếng nhất của Long Thọ là Thánh Thiên (Aryadeva) tác giả của Bốn trăm Bài kệ Luận thuyết trên những Hành vi của Du già Bồ tát và vài luận giải của Tantra Bí mật.

[1] Nagarjunakonda (skt): Địa danh Phật giáo ở vùng Nam Ấn Độ. Theo Giáo sư Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo, người ta không được biết gì về ngôi tháp lớn ở Nagarjunakonda hay đồi Nagarjunakonda cho đến khi tháp nầy được phát hiện vào năm 1934. Tháp nằm trên mạn phía nam của sông Krishna trong quận Guntur. Đây cũng là một đại tháp vì có cất giữ di hài của Đức Phật, và có lẽ được xây vào thời vua A Dục. Tháp được tân tạo và xây cất bổ sung bởi Santisiri cùng các mệnh phụ khác trong hoàng tộc. Những người nầy được xem là đã có công giúp cho Phật giáo phát triển tại Andhra trong thế kỷ thứ 3. Tháp nầy ngày nay tuy đã đổ nát nhưng trông còn đồ sộ hơn tháp ở Amaravati. Hàng trăm công trình điêu khắc thực hiện theo phong cách Amaravati đã được tìm thấy tại đây. Qua các dòng chữ khắc trên các cây trụ Ayaga, người ta thấy rõ rằng Nagarjunakonda, thành phố cổ của Vijayapuri, có tầm quan trọng to lớn của một trung tâm Phật giáo đã có danh tiếng quốc tế. Nhiều tu viện đã được xây cất tại nơi nầy để làm nơi trú ngụ cho tu sĩ Phật giáo thuộc các tông phái khác từ nhiều nước đến như Tích Lan, Kashmir, Gandhara, Trung Hoa, vân vân. Người dân Andhra giao thương với cả trong nước và nước ngoài, họ đã có sự tiếp xúc sâu xa với xã hội La Mã thời ấy. Điều nầy được chứng minh qua sự phát hiện những bản khắc và công trình điêu khắc mô tả một chàng lính râu ria mặc áo chẽn, quần tây, và nhiều vật dụng khác có nguồn gốc từ La Mã. Tại Andhra, các nơi như Guntapali, cách ga xe lửa Ellore chừng 28 dặm, và Sankaram, cách Anakapalli một dặm về phía Đông, là những địa điểm nổi tiếng vì các công trình kiến trúc trong đá. Các địa điểm khác trong vùng lân cận cũng được xem là có tầm quan trọng trong thời đại của Phật giáo, điều nầy được xác nhận qua sự hiện diện của các ngôi tháp cùng các di tích cổ tại đây. Các địa điểm đáng chú ý nhất trong số nầy là Goli, Chezarta, Gummatia, Bezwada, Garikapadu, Uraiyur, Kuvain, Chinve và Vidyadharpur. (Từ điển Phật học Thiện Phúc)

Biography of Nagarjuna
Alexander Berzin
February 2006
Tuệ Uyển chuyển ngữ
08-03-2010
http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/07/2022(Xem: 3383)
Gần đây nhờ theo dõi thường xuyên các khoá An Cư Kiết Đông của Phật Giáo Đại thừa thường kiết giới bắt đầu từ rằm tháng tư và giải chế tự tứ vào rằm tháng 7 và một trong các thời khoá có nghi thức lạy Ngũ bách Danh Quan Thế Âm hoặc lạy mỗi chữ một lạy trong kinh Pháp Hoa mà cuối câu đều là Quán thế Âm thí dụ :
13/06/2022(Xem: 4665)
Lễ An Vị Bồ Tát Quan Âm Tam Diện Lộ Thiên tại A Di Đà Land, Taralga, NSW, Úc Châu (11/6/2022) MC: Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên -Phật tử tề tựu -Cung thỉnh Chư Tôn Đức quang lâm -Giới thiệu chương trình, chư tôn đức và quý quan khách tham dự -Lời chào mừng của Đạo hữu Tony Thạch Quân Thật, pd: An Hậu -Lời đạo từ của Thượng Tọa chứng minh -Lễ tụng kinh sái tịnh an vị (TT Nguyên Tạng & NS Như Như) -Tặng quà và phát bằng tán dương công đức đến quý Phật tử đóng góp công quả cho A Di Đà land trong thời gian qua -Chụp hình lưu niệm -Thọ trai và hoàn mãn
16/04/2022(Xem: 3345)
Phật Mẫu Chuẩn Đề ngự trên đài sen Vầng hào quang ánh tỏa ra rực rỡ Phật, Pháp,Tuệ nhãn chiếu soi cứu độ Chúng sanh khỏi kiếp khổ nạn đau thương
23/03/2022(Xem: 2992)
Kính lạy Đức Bồ Tát biểu tượng cho đại hạnh thực tiễn Hình thành nội hàm tín ngưỡng tinh thần BI, TRÍ, NGUYỆN, HẠNH của Phật giáo Bắc Tông (1) Điểm đặc sắc ...Đại thừa tâm lượng rộng lớn !
20/03/2022(Xem: 2670)
Tâm Đại từ bi. Từ là năng lực đem lại an vui cho chúng sanh; Bi là năng lực dứt trừ khổ đau cho mọi loài. Từ bi có sức mạnh thể chất và tâm linh để dõng mãnh làm lợi lạc cho đời, như vậy trong từ bi đã bao hàm Trí tuệ và Hùng lực mới đủ uy đức nhiếp chúng độ sanh. Tâm Đại từ bi là tâm của bậc đã thành tựu đạo nghiệp. Nay phàm phu chúng con nghiệp dày phước mỏng nhưng cũng nguyện thực tập theo hạnh Từ bi của Bồ Tát. Nguyện cho tâm chúng con mỗi ngày một bớt giận ghét người, không sân si với hoàn cảnh mình đang sống và biết ơn với những gì mình đang có. Nguyện đem tất cả khả năng của mình để cống hiến niềm vui cho đời, giúp người bớt khổ. Nhờ vậy mà tâm chúng con ngày càng tỏa sáng tình thương yêu, hiểu biết để thể nhập vào nguồn sống dạt dào Từ Bi Hỷ Xả của chư Phật, chư Bồ Tát.
19/03/2022(Xem: 2516)
Bồ Tát có gốc là Bodhisattva. Từ Bodhi có nghĩa là " giác ngộ.", sattva có nghĩa là "chúng sanh". Bodhisattva được dịch là chúng sanh giác ngộ hoặc người giác ngộ. Sau khi đạt được giác ngộ, bằng từ bi và trí tuệ, vị Bồ Tát giúp mình và người khác vượt qua biển khổ đến bờ an lạc. An lạc chính là Niết Bàn. Trong cuộc sống hàng ngày, các vị Bồ Tát luôn có mặt quanh ta, gồm Bồ Tát xuất gia và Bồ Tát tại gia. Đó là những người bằng trí tuệ, công sức giúp mọi người bớt khổ đau trong thân và tâm. Bồ Tát làm được điều đó bởi trong tâm của Bồ Tát tồn tại một năng lượng gọi là Tâm Bồ Đề. Khi quy y Tam Bảo, ai cũng muốn có Tâm Bồ Đề. Để đạt được Tâm Bồ Đề của một vị Bồ Tát, người tu phải tự hỏi: Mình an lạc không? Mình sống chan hòa với những người xung quanh không? Người tu phải hiểu rõ cái tính Không trong cuộc sống. Hoa cũng là đất và đất cũng là hoa. Bởi khi ngộ được “Ngũ uẩn giai không” thì mới “ độ nhất thiết khổ ách” tức là vượt qua mọi khổ đau đến được bờ Niết Bàn.
01/11/2021(Xem: 5421)
Kính mừng Lễ Vía Đức Phật Dược Sư Đản Sinh 30/9 Nhân ngày lễ Đức Đông Phương Giáo Chủ cùng tìm hiểu niềm tin đối với Ngài và sự mầu nhiệm linh ứng đến với mỗi Phật Tử .... Cách đây 25 năm, lần đầu tiên sự linh ứng của Phật Dược Sư đã đến với tôi một cách bất ngờ mà sau này khi học Phật tôi mới hiểu là mình có được túc duyên mới có được một phương thuốc nhiệm mầu về tâm linh do Ngài ban tặng qua câu thần chú linh ứng như sau mà lúc ấy chưa có YouTube để nghe như bây giờ .... Thần chú Dược Sư là một trong những câu thần chú được trì tụng nhiều nhất bởi công năng bất khả tư nghì mà nó đem lại cho hành giả khi trì tụng. Không chỉ có năng lực chữa lành bệnh tự thân hành giả mà còn có công năng chữa bệnh cho người khác. Quan trọng hơn là khả năng tịnh hoá những nghiệp bất thiện trong
22/10/2021(Xem: 2793)
Kính mừng Lễ Vía Quán Thế Âm 19/9 Kính dâng Thầy bài thơ nhân ngày Lễ Vía Quán Thế Âm 19/9 âm lịch ( 24/10/2021) .Kính chúc sức khỏe Thầy Kính ngưỡng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ... Một lần nữa, sự nhiệm mầu đã đến ! Melbourne vừa gỡ bỏ lockdown hai ngày Lễ vía Bồ Tát 19/9 sẽ cử hành ... hoan hỷ thay ! Mừng Ngài đã lắng nghe, giải cứu giúp thoát Khổ ! Sự là lòng từ bi nhân ái vị tha ...Bồ Tát Độ Lý thì chúng con tự cứu độ bản thân Bao dung, không tham đắm ái nhiễm bụi trần Bố thí, yêu thương người .. luôn giữ tâm ý sạch ! Kính nguyện : ... học ý nghĩa tên Ngài để làm tròn trọng trách, Người Phật Tử phải thể hiện được Từ Bi Nhẫn nhịn trước mọi nghịch duyên chớ khóc than chi Hiểu rõ hơn, lắng nghe hơn ... giải tỏa uẩn khúc ! Ngày Lễ Vía Quan Âm Xuất Gia 19/9 .. nguyện hứa biết tri túc ! Huệ Hương Melbourne 24/10/2021
06/09/2021(Xem: 3709)
Địa ngục là một khái niệm thuộc thế giới quan, nhằm mục đích trừng ác, răn dè hành vi của con người trong thế giới thực tại. Quan niệm về địa ngục được hình thành trên cơ sở thuyết luân hồi, luật nhân quả, thuyết báo ứng. Từ tư tưởng triết học, địa ngục được chuyển hóa thành nhiều loại hình nghệ thuật tôn giáo khác nhau, từ các dịch phẩm, khoa nghi, thơ phú, cho đến nghệ thuật tôn giáo, hội họa, bích họa, điêu khắc, phù điêu, đồ họa. Sự ảnh hưởng của kinh tạng Bắc truyền và nền nghệ thuật Phật giáo Đông Á là điều ai cũng có thể dễ dàng nhận thấy. Từ triều đại Lê Thánh Tông (1442-1496) có bài “Thập giới cô hồn quốc ngữ văn”, trong có đề cập đến thiên đường, địa ngục, Phong Đô, cảnh đói khát dưới chốn âm ty. Bài này dùng để răn dè 10 loại người gồm: thiền tăng, đạo sĩ, quan lại, Nho sĩ, thầy địa lý, thầy thuốc, tướng quân, hoa nương, thương nhân, đãng tử. Như vậy có thể hiểu được rằng dẫn có những tham khảo nhất định về địa ngục của Phật giáo. Bài này là để cúng xá tội vong li
24/07/2021(Xem: 2940)
Kính lạy Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát ( Avalokitesvara) Ngài là vị Bồ tát với hạnh nguyện luôn lắng nghe tiếng kêu khổ đau của cuộc đời rồi tìm cách cứu giúp chúng sinh. Hôm nay là ngày vía Đức Ngài đã thành Đạo 19/6 âm lịch rơi vào 28/7/2021. Kính bạch Ngài .... Từ nhiều năm về trước các chùa Tự viện tại VN và Hải ngoại đều cử hành 3 ngày vía (19/2-19/6-19/9) rất trọng thể để quy ngưỡng và dâng trọn niềm tin đến Đức Ngài. Vị Bồ tát có khả năng thị hiện vô biên thân, tùy theo hoàn cảnh và điều kiện mà hiện thân tương ứng để cứu độ muôn loài.( theo kinh Pháp Hoa ). Và con đã từng khấn nguyện sẽ cúng dường đến Ngài bằng những vần Thơ , bài viết hầu tán dương Ngài với hạnh nguyện Nhĩ căn Viên Thông như Đức Cổ Phật hiệu Chánh Pháp Minh Như Lai đã thành tựu và trong dân gian Ngài (Bồ-tát Quán Thế Âm ) được tha thiết thầm kính tôn xưng Mẹ Quan Âm .
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567