Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hiếu hạnh của Tôn Giả Mục Kiền Liên

05/08/201114:03(Xem: 8735)
Hiếu hạnh của Tôn Giả Mục Kiền Liên
Bo_Tat_Muc_Kien_Lien
HIẾU HẠNH CỦA TÔN GIẢ MỤC KIỀN LIÊN

Thích Trí Quảng

Trong sử ghi rằng, khi Đức Phật tại thế, trên bước đường giáo hóa độ sinh, Mục Kiền Liên luôn ở bên tả và Xá Lợi Phất ở bên hữu của Phật. Xá Lợi Phất xuất gia theo Phật, công phu nửa tháng mới đoạn dứt kiết sử, trừ được phiền não. Trong khi Mục Kiền Liên chỉ trong bảy ngày, liền dứt hết các lậu hoặc, đắc thần thông, chứng quả A la hán.

Nhiều vị đệ tử của Phật có thần thông phi thường, nhưng riêng Mục Kiền Liên được Phật khen ngợi là thần thông đệ nhất và cho phép Ngài sử dụng thần thông để hóa độ chúng sinh.

Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật, căn lành đời trước của Ngài liền được khai mở và phát tâm xuất gia theo Phật.

Thật vậy, chính căn lành sâu dày với Phật đạo bộc phát đã thôi thúc Mục Kiền Liên quyết tâm tiến bước theo Tứ Thánh đế của Đức Phật chỉ dạy và nỗ lực thể nghiệm thành tựu được những pháp đầu tiên của 37 trợ đạo phẩm, Ngài đã chứng đắc được pháp Không. Tiến sang công phu tu tập pháp Tứ chánh cần, Ngài đạt đến trạng thái tâm hoàn toàn yên tĩnh, thành tựu pháp Tĩnh và đi sâu vào Thiền định, Ngài chứng đắc Tứ như ý túc, đạt được pháp Xả, không còn vướng mắc với bất cứ pháp hữu vi nào. Với Tam ma địa như ý túc, hay trong Thiền định, Mục Kiền Liên đã vận dụng tâm một cách kỳ diệu, nên Ngài đi lại hoàn toàn tự tại trong các thế giới, gọi là sử dụng được thần thông lực đến tuyệt đỉnh, nên Ngài mới được tôn danh là bậc Thần thông đệ nhất.

Một hôm trong Thiền định, mối quan hệ sâu nặng giữa Mục Kiền Liên với mẹ của Ngài trong quá khứ bỗng trỗi dậy, khiến cho Ngài nhớ đến bà mẹ đã chăm sóc từng miếng ăn, giấc ngủ của Ngài, thì liền đó cảnh giới ngạ quỷ cũng xuất hiện, Ngài nhìn thấy người mẹ quá khứ đang mang thân quỷ đói ở đó. Trong Thiền định, Mục Kiền Liên vội vàng dâng cơm cho mẹ Ngài, nhưng bà không thể nào ăn được, vì cơm đưa vào miệng bà liền biến thành lửa đỏ.

Mục Kiền Liên đau xót vô cùng; vì chứng được thần thông tự tại giải thoát như vậy, mà cũng không thể giải trừ được nghiệp của người mẹ, ngay cả không thể cứu được mẹ Ngài tạm thời hết đói. Ngài vội vàng xin Phật chỉ rõ phương cách cứu mẹ mình.

Đối với người đã tạo nghiệp thâm trọng, đọa ngạ quỷ rồi, thì cách giải khổ cho họ không đơn giản. Đức Phật dạy rằng phải nhờ oai thần của Tam bảo, mà chủ yếu là pháp lực mới có thể làm cho tâm trí của người bị nghiệp ác bao phủ được tỉnh ngộ. Và pháp lực có được do sức Thiền định công phu của đại Tăng. Chỉ những vị tu hành vận dụng được ngũ căn, thành tựu được ngũ lực, mới tạo thành sức mạnh siêu hình. Và sức mạnh siêu nhiên này của chư Tăng mới có khả năng tác động tâm hồn đen tối của loài ngạ quỷ, chuyển đổi được nghiệp thức sai lầm khổ đau của họ, giúp họ nhận ra được sự đau khổ vô lý mà họ tự đeo mang, tự giày vò. Thật vậy, trong kinh Pháp Hoa, Phật dạy rằng trong tam giới không có sinh tử, sinh tử chỉ là ảo giác; nhưng chúng sinh vì nghiệp lực đè nặng mà phải chịu khổ vì ảo giác này, trong khi thực chất không có khổ đau.

Vì vậy, Phật bảo Mục Kiền Liên chỉ có cách duy nhất là nhờ pháp lực, tức đạo lực của chư Tăng mới hóa giải được nghiệp đói khổ của người mẹ. Mục Kiền Liên vâng theo lời Phật dạy thỉnh chư Tăng chú nguyện. Và đạo lực siêu việt của đại Tăng đã tạo thành thế giới thiên đường tịnh lạc, đạo lực của nhiều bậc chân tu đắc đạo cũng tác động đến nghiệp thức của mẹ ngài Mục Kiền Liên, khiến bà rời bỏ được ảo giác của thế giới ngạ quỷ để bước vào thiên giới an vui, hạnh phúc.

Điều này cho chúng ta hiểu rằng nghiệp thức rất quan trọng, vì nó đã chủ động cuộc sống kế tiếp của chúng ta sau khi chấm dứt mạng sống này. Làm nhiều việc ác, nghĩ điều ác, nói điều ác, tất cả những ác nghiệp này chất chứa trong tiềm thức của chúng ta, mà từ chuyên môn gọi là A lại da thức. Khi xác thân hữu hình này chết, thì a lại da thức, hay thường gọi là thần thức của người chết vẫn còn tồn tại và nó sẽ chi phối mọi cảm nhận của người chết. Nếu thần thức nghĩ tưởng đói khát thì người chết sẽ cảm thấy bị đói khát, nếu thần thức nghĩ đến khổ đau thì họ bị khổ đau. Thần thức nghĩ tưởng, hay tất cả vọng tâm này đều là ảo giác, chỉ có chân linh mới là thật và chân linh không bao giờ bị đói khát, khổ sở gì cả. Phải sống với thần thức mê mờ và bị nó chi phối hoàn toàn, nên vong hồn người chết mới cảm nhận bị đói khát, nóng lạnh, khổ đau, tức giận, v.v… Chỉ có đạo lực của những bậc chân tu mới tạo thành sức mạnh cảm hóa được thần thức người chết, khiến họ xa rời được thế giới ảo giác của nghiệp lực, để trở về thế giới chân thật an vui.

Nương theo pháp lực, đạo lực của chư Tăng đã thâm nhập thế giới thanh tịnh, giải thoát, người mẹ của Mục Kiền Liên rời bỏ được thế giới đói khát của ngạ quỷ và được siêu thăng, đi vào thế giới chư Thiên. Các loài ngạ quỷ cũng nương nhờ đạo lực của đại Tăng truyền cho người mẹ của Mục Kiền Liên mà họ được thoát khỏi thế giới đói khổ.

Từ pháp Phật dạy Mục Kiền Liên về đạo lực của đại Tăng cứu mẹ siêu sanh về cảnh giới chư Thiên, sau này chư Tăng tu hành ở nơi nào cũng thường vào Thiền định, thâm nhập các loại hình thế giới để cứu độ chúng sinh. Thiết nghĩ thể nghiệm được pháp Phật dạy trong chính cuộc sống tu hành của chúng ta là phương cách hiệu quả nhất để cứu giúp mọi người thoát khỏi cảnh giới khổ đau, an trú trong thế giới vĩnh hằng bất tử. Thành tựu như vậy, chúng ta báo đáp được bốn ân sâu nặng trong mùa Vu lan Báo hiếu.

Thích Trí Quảng

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/06/2016(Xem: 8940)
Nam Mô Bồ Tát Thường Lắng Nghe, Quán Thế Âm có nghĩa là lắng nghe một cách sâu sắc, trọn vẹn những âm thanh, tiếng nói của cuộc sống, cuộc đời. Chữ Quán ở đây hàm nghĩa lắng nghe trong sự hiểu biết cộng với sự quan sát sâu sắc của lòng yêu thương từ ái. Bồ Tát Quan Thế Âm là vị Bồ Tát đã được người đời nghĩ tới và niệm danh hiệu của Ngài vì Ngài đã nguyện luôn lắng nghe tiếng kêu thương của cuộc đời. Không chỉ
09/04/2016(Xem: 15281)
Đôi lời về Xá Lợi Phật_Lạt Ma Zopa Rinpoche_Hồng Như dịch, Bảo Tháp thờ Xá Phật còn sót lại ở Thành Tỳ Xá Ly, Ấn Độ (hình phái đoàn hành hương Phật tích Ấn Độ của Tu Viện Quảng Đức tháng 11-2006)
21/03/2016(Xem: 4491)
Ở đây chúng ta cũng nên định nghĩa về hai chữ "tình yêu" (Liebe) và "tình thương" (Barmherzigkeit) nó khác nhau hay giống nhau ở điểm nào? Khi người ta nói đến tình yêu, tức giới hạn giữa con người và con người như nam và nữ yêu nhau hay giữa con người và động vật cũng như cảnh vật chung quanh mình. Tình yêu luôn có sự chấp ngã và hay bi lụy về đối tượng mình đang yêu, nhưng khi không được yêu và tự ngã của người nam hay người nữ bị tổn thương thì tình yêu ấy không còn là tình yêu nữa, mà đôi khi còn trở nên thù hận với nhau. Khi người nam yêu người nữ có nghĩa là người đàn ông ấy muốn chiếm hữu riêng người đàn bà kia về cho mình, còn khuynh hướng của người nữ là khuynh hướng nương tựa, nếu đối tượng là người nam mà giới nữ không còn nương tựa được nữa thì tình yêu ấy trở nên xa cách và nguội lạnh dần, không mặn nồng như thuở ban đầu nữa.
09/09/2015(Xem: 8748)
Như cố thi hào Nguyễn Du đã nói: “Đã mang lấy nghiệp vào thân, Đừng nên trách lẫn trời gần, trời xa”. Nghiệp như cái bóng theo hình, một ngày chưa chứng thánh quả A La Hán thì cho dù trên trời, dưới đất, trong hư không nó đều bám theo. Nghiệp quả thật ghê gớm. Mỗi người mỗi nghiệp khác nhau, muôn hình vạn trạng, có nặng có nhẹ mà chỉ chư Phật mới thấu rõ hết về chúng. Nếu quý vị muốn biết thì nên đọc qua Thủy Sám Pháp Văn hay Kinh Địa Tạng… thì cũng sẽ thấu hiểu được phần nào.
12/07/2015(Xem: 9541)
Quan Thế Âm Bồ Tát Tầm Thinh Cứu Khổ Phổ Môn Thị Hiện Đồ. Bản dịch của Viên Huệ Dương Chiêu Anh
03/04/2015(Xem: 14854)
Phổ Hiền thập đại nguyện hạnh là nội dung hạt nhân trong việc tin ngưỡng và tu trì của Bồ Tát Phổ Hiền, xuất phát từ Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện trong Kinh Hoa Nghiêm. Phật Giáo Hán truyền coi Bồ Tát Phổ Hiền là biểu tượng cho đại hạnh thực tiễn, cùng với Bồ Tát Quán Âm (biểu tượng cho Từ Bi), Bồ Tát Văn Thù (biểu tượng cho trí tuệ), Bồ Tát Địa Tạng (biểu tượng cho thệ nguyện); cùng hình thành nên nội hàm tín ngưỡng và tinh thần tiêu biểu của bốn tâm hạnh Bi-Trí-Nguyện-Hạnh của Phật Giáo Đại Thừa.
21/01/2015(Xem: 7121)
Phía Tây của Long thành, phía Nam của Tản sơn, thẳng ra ngoài cõi Ai Lao, Xiêm La, có một nơi gọi là Hương Tích Sơn, nằm giữa Bắc kỳ, Nam hải, nơi ấy là động thiên bậc nhất vậy. Núi thì đặc thù, nước thì tú lệ, cảnh trần tịch tĩnh, nơi cầu tự cầu tài, chốn chữa bệnh trừ tai. Mỗi năm Xuân về, không dưới ba vạn người, có người ở gần về dự, có người ở xa ngàn muôn dặm cũng đến. Tiếng linh diệu lớn lao, rung động mắt tai người, rõ ràng là “thần quyền thời đại”, thật lạ thường thay. Ngoài núi non và con người, Hương sơn mà xa cách một ngày như ép buộc đi đến trần cương; ba mươi năm qua trọn chẳng đến một lần, nỗi buồn nào như đây; ngày nay năm mươi sáu tuổi vẫn còn viện cớ. Sức thuyền từ một phen đưa chuyển, kết quả có thể xuyên qua, đến nước lên non, niềm vui có thể nhận biết.
21/01/2015(Xem: 8642)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
06/01/2015(Xem: 10282)
Mẹ tôi tin “chắc như đinh đóng cột” vào sự linh ứng của Bồ-tát Quán Thế Âm. Mẹ nhất quyết: bất cứ ai, hễ gặp bất trắc, tai nạn khổ đau mà thành tâm niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì Ngài sẽ cứu độ cho tai qua nạn khỏi. Nếu không được ngay thì sớm muộn mọi sự cũng hanh thông tốt đẹp! Mẹ tôi nhắc nhở con cháu và mọi người quen lạ nên thành tâm cầu nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm! Và câu niệm “Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát” đã nhập tâm và theo mẹ tôi suốt cho đến cuối đời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567