Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 10: Bốn mươi điều làm tăng trưởng Bồ Đề tâm của một bậc Bồ Tát

15/05/201318:53(Xem: 8339)
Chương 10: Bốn mươi điều làm tăng trưởng Bồ Đề tâm của một bậc Bồ Tát

Tu Tập Hạnh Bồ Tát

Làm Thế Nào Để Trở Thành Một Bậc Bồ Tát Sáng Rực Khắp Bốn Phương

Chương 10: Bốn Mươi Điều Làm Tăng Trưởng Bồ Đề Tâm Của Một Bậc Bồ Tát

Phạm Công Thiện

Nguồn: Phạm Công Thiện


Bốn mươi điều này đều có thể khiến cho những sự tu hành thiện pháp của Bồ Tát được tăng trưởng không ngừng, chứng đạt tâm bình đẳng và chứng nhập Bồ Đề Tâm, đạt tới Bồ Đề vô thượng.

1. Bậc Bồ Tát lìa bỏ những tà thuyết tà đạo và cầu tìm những kinh điển Phật giáo chân chính, như những kinh điển về Sáu Ba la mật đa, tức là Pháp Tạng của Bồ Tát, và lúc cầu đạo tu hành như vậy, liền vứt bỏ tính kiêu mạn và giữ lòng khiêm tốn, khiêm hạ đối với tất cả chúng sinh;

2. Một bậc Bồ Tát chấp nhận những sự cúng dường quà tặng, thuận theo Phật Pháp, bằng lòng, biết vừa đủ với những gì mình nhận được, không sinh sống với những tà hạnh, tà mạng, và biết vui sống an lành trong bốn thánh hạnh. Tứ thánh hạnh là biết vừa lòng, vừa đủ với việc ăn mặc giản dị, ăn uống sơ sài, ngủ nghỉ không cần tiện nghi, tu hành thiện pháp vứt bỏ phiền não. Phấn tảo y làm lương dược để đối trị lòng ham muốn quần áo (y dục). Khất thực để đối trị với lòng ham ăn uống cao lương mỹ vị (thực dục). Thọ hạ (ngồi nghỉ dưới cây) để đối trị lòng thèm ngủ giường cao gối đẹp êm ấm (ngọa cụ dục). Và thân tâm tịch tĩnh đối trị với lòng ham muốn vật chất tài sản (hữu dục);

3. Bậc Bồ Tát không vạch trần những tội lỗi của những người khác, dù những điều ấy có đúng hay sai, có thực hay không. Bồ Tát không bới lông tìm vết, cố tìm cho ra những sơ hở khuyết điểm của người khác;

4. Mỗi khi bậc Bồ Tát cảm thấy rằng một số giáo lý Phật Pháp có vẻ khó hiểu thì bậc Bồ Tát phải nghĩ rằng Phật Pháp có những phẩm tính vô lượng, vô hạn định, vì giáo pháp được thuyết giảng tùy theo những khuynh hướng riêng biệt của chúng sinh. Chỉ có Đức Phật là thông đạt biết rõ những điều khó hiểu ấy, chứ riêng mình thì chưa đủ khả năng. Mình phải tùy thuận vào Đức Phật như là chứng tín, chứ không nên nuôi lòng trái nghịch, bất thuận và chống đối lại chánh pháp.

Còn những điều kế tiếp sau đây là những dấu hiệu nói lên tướng trạng của lòng ngay thẳng, trực tâm của Bồ Tát:

5. Bậc Bồ Tát không che giấu những điều phạm tội của mình, phải phơi bày thú nhận những điều phạm tội của mình cho kẻ khác biết để cho cõi lòng của mình được thoát khỏi những phiền muộn che đậy thắt buộc;

6. Bồ Tát chẳng bao giờ nói dối, chẳng bao giờ vọng ngữ, ngay đến phải chịu mất thân mệnh, sinh mệnh, quê hương hay quốc độ;

7. Lúc Bồ Tát gặp tai nạn nghịch cảnh bi đát, bị chửi rủa, mắng nhiếc, đánh đập, bêu xấu, trói buộc xiềng xích giam cầm hoặc bị tổn thương bằng mọi cách khác, Bồ Tát chỉ tự trách mình và khép mình chịu đựng tuân theo nghiệp báo, chớ không giận hờn thù ghét ai cả;

8. Bồ Tát giữ gìn sức mạnh của đức tin mình một cách vững chắc. Lúc nghe Phật Pháp, gặp điều gì sâu thẳm và khó tin, chính lòng trong sạch của Bồ Tát khiến cho mình có khả năng nhận lãnh thọ trì Phật Pháp, nhận lãnh thọ trì những điều thậm thâm khó tin của Phật Pháp một cách thuần thành trọn vẹn.

Kế đó là những điều, những dấu hiệu, tướng trạng chỉ tỏ lòng thiện thuận, điều thuận của Bồ Tát:

9. Bồ Tát lãnh nhận Kinh Phật với tất cả lòng tin sâu đậm ngay vào lần đầu tiên được nghe kinh và thực hành như đã được giảng dạy (tín thọ thực hành), nương tựa vào Phật Pháp, chứ không nương cậy vào những lời, những chữ (y chỉ nơi Phật Pháp, không y theo ngôn thuyết, vì ngôn thuyết chỉ là biểu tượng dụng cụ cho Phật Pháp);

10. Bồ Tát thuận theo những lời dạy đạo của Sư Trưởng, biết rõ những ý định, ý chỉ của Sư Trưởng và thưa hỏi học đạo với Thầy một cách cởi mở; bất cứ việc làm gì cũng đều thuận hợp với đức độ và thuận hợp với ý định của Thầy mình;

11. Bồ Tát không bao giờ thối chuyển trong giới luật và thiền định, chấp nhận những sự cúng dường với một tâm thức điều thuận;

12. Mỗi khi bậc Bồ Tát lại nhìn thấy một vị Bồ Tát đầy đủ đức hạnh thiện lành thì liền cung kính, ngưỡng mộ và gắng sức noi gương thực hành thiện hạnh.

Kế tiếp là những chánh đạo, những con đường chân chính cho một bậc Bồ Tát:

13. Đối xử tất cả chúng sinh một cách bình đẳng, với lòng không thiên vị và không phân biệt;

14. Giảng dạy, giáo hóa Phật Pháp cho tất cả chúng sinh với lòng bình đẳng như trên và đều đồng phát từ Trí Huệ của chư Phật;

15. Thuyết pháp cho tất cả chúng sinh mà không có tâm phân biệt kỳ thị, bình đẳng như trên;

16. Khiến cho tất cả chúng sinh đều được đồng đều an trụ trong hành động chân chính (chính hạnh).

Sau đây là những hạng người làm bạn tốt và kẻ đồng hành tốt cho một vị Bồ Tát:

17. Những kẻ nào kêu gọi một bậc Bồ Tát để cầu xin giúp đỡ, đó là những người bạn tốt (thiện tri thức) của Bồ Tát, vì họ khiến cho Bồ Tát được bước trên con đường của chư Phật;

18. Những kẻ nào có thể thuyết giảng Phật Pháp đều là thiện tri thức của Bồ Tát, vì họ trải rộng lan truyền Trí Huệ;

19. Những kẻ nào có thể làm cho kẻ khác lìa bỏ đời sống thế tục (để xuất gia) đều là thiện tri thức, vì họ làm tăng trưởng những thiện pháp;

20. Tất cả chư Phật, tất cả đấng Thế Tôn đều là những thiện tri thức của Bồ Tát, vì chư Phật khiến cho tất cả Phật Pháp được tăng trưởng phồn thịnh.

Kế tiếp theo là hạng Bồ Tát chơn thực, Bồ Tát thực sự là Bồ Tát:

21. Những hạng Bồ Tát chân thực là hạng người chẳng những hiểu tin Không Tính thôi mà cũng tin cả thuyết nghiệp báo nữa;

22. Hạng Bồ Tát chân thực biết rằng tất cả pháp đều không có tự tính mà vẫn giữ trọn lòng Đại Bi cho chúng sinh;

23. Hạng Bồ Tát chân chính yêu thích Niết Bàn một cách thâm thiết mà vẫn thong dong tiếp tục lang thang trong cõi luân hồi;

24. Hạng Bồ Tát chân chính thực hành bố thí xả thân vì lợi ích chúng sinh mà vẫn không cần báo đáp trả ơn.

Kế đó là những kho tàng quí báu vĩ đại của một Bồ Tát, những "đại tạng" của Bồ Tát:

25. Đại tạng của Bồ Tát là gặp được chư Phật;

26. Đại tạng của Bồ Tát là nghe được sáu Ba la mật (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, Bát Nhã) và được nghe giảng giải về ý nghĩa siêu việt của sáu Ba la mật;

27. Đại tạng của Bồ Tát là tôn trọng ngó nhìn một bậc Pháp Sư với tâm vô ngại (lòng không bị chướng ngại ngăn trở);

28. Đại tạng của Bồ Tát là thích tu hành viễn ly, xa lìa thế tục với lòng không giải đãi (lười biếng, trễ biếng).

Tiếp theo là những điều khiến cho một bậc Bồ Tát vượt thắng những chướng ngại ma quái, vượt thắng những ma sự;

29. Không bao giờ lìa xa ly cách với Lòng Bồ Đề (Bodhicitta: Bồ Đề Tâm);

30. Không bao giờ mảy may giận hờn, không bao giờ có một mảy may ác cảm muốn làm hại chúng sinh;

31. Biết rõ ràng đủ loại tri và kiến (ngộ nhập Tri Kiến);

32. Không bao giờ có lòng khinh bỉ, coi nhẹ xem thường bất cứ chúng sinh nào.

Đây là những điều khiến cho Bồ Tát nhiếp được các thiện căn:

33. Tránh lìa tâm địa siểm khúc lúc sống trong sự cô độc;

34. Thực hành bốn nhiếp pháp giữa lòng chúng sinh mà không cần mong đợi bất cứ sự đền đáp ban thưởng nào (tứ nhiếp pháp là bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự);

35. Tìm cầu học Phật Pháp một cách dũng mãnh tinh tiến, dù phải tan thân nát mạng;

36. Tu hành rất nhiều thiện căn mà không bao giờ biết chán.

Sau đây là những sự trang nghiêm tạo ra những phước đức vô lượng:

37. Giảng dạy Phật Pháp (Pháp thí) với lòng trong trắng thanh tịnh;

38. Có lòng Đại Bi đối với những kẻ phá giới;

39. Tuyên dương ca tụng Lòng Bồ Đề (Bồ Đề Tâm) giữa lòng chúng sinh;

40. Thực hành tu tập lòng Nhẫn Nhục mỗi khi bị hạng người thấp hèn lăng mạ mình, sỉ nhục mình tồi tệ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2021(Xem: 3618)
Không hiểu tại sao đến bây giờ tôi mới chú ý đến điều lý thú và mầu nhiệm này giữa Khánh Vía 19/2 của Bồ Tát Quán Thế Âm và Khánh Vía 21/2 của Đức Bồ Tát Phổ Hiền! Như chúng ta ai cũng biết Phật giáo Đại Thừa có Tứ Đại Bồ Tát đó là : Đức Quán Thế Âm, Đức Đại Trí Văn Thù, Đức Đại Hạnh Phổ Hiền và Đức Địa Tạng Bồ Tát . Từ lâu Phật tử Bắc Tông thường cử hành long trọng 3 ngày lễ vía cho Đức Bồ Tát Quan Thế Âm đó là 19/2 ngày đản sanh , 19/6 ngày thành đạo và 19/9 ngày xuất gia . Riêng lễ vía Đức Bồ Tát Phổ Hiền đản sinh vào ngày 21 tháng hai âm lịch và nhưng rất ít khi được nhắc đến lễ vía Đức Ngài thành đạo vào ngày 23 tháng tư âm lịch.
17/11/2020(Xem: 4026)
Một người đi vượt biên từ Huế đi về hướng Hong kong, trên thuyền đánh cá nhỏ của gia đình gồm 5 người, đi được 5 ngày mà lạc đường hết xăng dầu trôi bềnh bồng trên biển. Cả nhà sắp chết khát và đói.Cả nhà quì lạy cầu nguyện Quán thế âm suốt ngày đêm cứu giúp cứu nạn. Với lòng thành, với tu theo Quán thế Âm từ lâu khi còn ở Huế, cầu xin được hai ngày thì có báo ứng. Tự nhiên có 3 con cá voi, một con đi đầu dẫn đường còn hai con còn lại cập kẹp vô thuyền hai bên hông mạn thuyền mà bơi về hướng mà sau này biết là Hong kong. Ba con cá ông nầy bơi như vậy suốt 2 ngày 2 đêm thì sáng ra, thấy bờ đất liền là Hong kong thì đàn cá chia tay. Cả nhà sống được và đi Mỹ ở California đến ngày nay. Như vậy giải thích tu tập theo Quán thế Âm là có thật
29/10/2020(Xem: 8246)
Thư Mời Tham Dự Lễ Vía Bồ Tát Quán Thế Âm tại Chùa Giác Nhiên, Tân Tây Lan
21/10/2020(Xem: 3675)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm là tuyển tập 500 danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Mỗi danh hiệu tán dương một bản nguyện, công đức, khuyến tu, hóa thân, hoặc oai lực của Bồ Tát, viết thành một câu khá dài. Phần lớn danh hiệu trích dẫn từ Kinh Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni (266 câu), Phẩm Phổ Môn trong Kinh Pháp Hoa (81 câu). Còn lại dẫn từ các Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Bí Mật Tạng Như Ý Luân Đà La Ni, Kinh Bất Không Quyến Sách, Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Như Ý Ma Ni Đà La Ni, Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Kinh Hoa Nghiêm và các Kinh Luận khác. Do dẫn nhiều bản Kinh nên có những chỗ tương tự hoặc lập lại để tôn trọng ý Kinh.
06/10/2020(Xem: 13175)
Giúp Phật hoằng pháp độ quần sanh, Quán sâu Bát-nhã trí tuệ thành. Năm uẩn đều không, trừ nhân ngã, Ba độc dứt rồi hiện Phật, Tăng. Điều tâm, lìa tướng, phá chấp pháp, Bỏ Tiểu theo Đại, đạo viên thành. Hiện tướng tỳ-kheo dạy bảo chúng, Lập thành công lớn chẳng kể công.
16/09/2020(Xem: 3621)
Nếu ai đã vào tuổi Thu Đông và đã từng trải qua những cơn đau nhức do thấp khớp chắc chắn sẽ hiểu được tiến trình tuần tự của sự Sinh / Diệt của Già, Bệnh, Khổ. Tâm trong chuỗi Thập Nhị Nhân duyên ( nếu hành giả ấy có học qua về Phật Pháp ) lúc bấy giờ hành giả sẽ không muốn bị ràng buộc bởi tham ái hay bất mãn nào cả.. Lúc đó khi ngồi chiêm nghiệm lại cuộc đời mình, hành giả sẽ thốt ra " Thì ra điều ao ước duy nhất khi đến với cuộc đời này chỉ là sẽ được sống hạnh phúc và chết bình an."
07/08/2020(Xem: 4494)
Gần đây vì luật phong tỏa cách giản xã hội, nhất là các tiểu bang phải chịu cảnh lockdown giai đoạn 3 và 4 , chùa chiền không thể có các buổi tập họp để nghe pháp thoại và tu bát quan trai hàng tháng nên các Thầy đã phương tiện cho nghe kinh và các bài giảng về các nghi thức hay lời dạy của Phật, Tổ . Hôm nay lại đến ngày vía Quan Âm Bồ Tát 19/6 , thường thì các chùa Bắc Tông vào ba ngày vía Quan Âm (19/2-19/6-19/9)thường tỏ chức những buổi lễ thật long trọng và trang nghiêm để cho thập phương Phật tử có cơ hội nghe lại 12 đại nguyện của Ngài để noi gương và hướng theo mà tu tập cũng như thực hiện các công việc từ thiện bố thí ...
07/04/2020(Xem: 6248)
Hẳn ai trì tụng Chú Lăng Nghiêm mỗi sáng đều có tụng thêm thập chú mà Chuẩn Đè thần chú nằm vào vị trí thứ tư như sau : “Khế thủ quy-y Tô-tất-đế, Đầu diện đảnh lễ thất cu chi. Ngã kim xưng tán Đại Chuẩn-Đề, Duy nguyện từ bi thùy gia hộ. Nam-mô tát đa nẩm tam-miệu tam-bồ-đề,
24/03/2020(Xem: 5423)
Trước khi phân tích và đi sâu vào chủ đề "Lý tưởng của người bồ-tát", thiết nghĩ chúng ta cũng nên tìm hiểu xem Phật giáo là gì, có phải là một tôn giáo hay không? Chữ "tôn giáo" (religion) là một thuật ngữ của người Tây phương, xoay quanh ý niệm về một Vị Trời Sáng Tạo ra thế giới và cả con người. Do đó con người phải chấp thủ quy luật do vị Sáng Tạo an bài, và điều đó cũng có nghĩa là nếu muốn được "cứu rỗi" thì phải chấp hành các phán lệnh của Vị ấy. Dhamma - tiếng Phạn là Dharma - hay Đạo Pháp do Đức Phật đưa ra hoàn toàn ngược hẳn với ý niệm đó. Dhamma là cách hướng vào bên trong con người của mình để tìm hiểu các nguyên nhân quá khứ và cả trong hiện tại đưa đến sự hiện hữu của chúng ta ngay trong lúc này, và chính sự hiện hữu đó cũng luôn ở trong tình trạng chuyển động và đổi thay, bằng cách liên kết và tương tác với vô số các điều kiện khác trong thiên nhiên và vũ trụ. Tu tập Phật giáo là tìm hiểu các nguyên nhân nào đã tạo ra sự hiện hữu trói buộc đó của mình để hó
13/03/2020(Xem: 3655)
Kính lạy Đức Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Phước Đức nào con được chút thiện duyên Sức mọn tài hèn chưa thấu ngộ Uyên Nguyên , Nên Xưng tán Ngài ngữ ngôn không đạt Ý !
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]