Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thử nhìn lại “Người tu học chân chính cần gì?”.

29/06/202306:51(Xem: 3197)
Thử nhìn lại “Người tu học chân chính cần gì?”.


ht vien minh

Thử nhìn lại “Người tu học chân chính cần gì?”.

Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’mà cũng không ai ‘ban’cho cả. Cũng như trong tu tập không có xua đuổi, cũng không có trông đợi.

Kinh Phật không phải để khẩu tụng mà kinh Phật là lời, là tiếng nói của người thực chứng cho nên tối thiểu nó phải được nhận thức, được hiểu biết thông qua sự thực nghiệm. Học kỹ đi rồi quên lý thuyết nhưng vẫn sống đúng với điều mình đã học đó gọi là đắc cái học. những gì mình đã học, nó trở thành cái con người* của mình rồi. Tu tập làm sao mà sẽ có một ngày nó trở thành cái vốn riêng của mình mà mình cũng không còn nhớ là mình đã học ở đâu, với ai. mà chỉ biết nó đã hoà quyện trong máu huyết mình rồi …

Cho nên trong đạo Phật đừng có nói linh nghiệm mà nói phải nói đến thể nghiệm, chứng nghiệm, thực nghiệm và hiệu nghiệm. Vì lời Phật là lời của người thực chứng nên phải được thực nghiệm.

.Nếu có cái gì đó mà mình thấy làm như hơi linh nghiệm thì phải hiểu đó là tính hiệu nghiệm của người hành trì, chứ không phải là sự linh nghiệm của người tụng đọc.

Chân lý rốt ráo của Phật giáo là sao? Theo HT. Thích Thánh Nghiêm “Tức là chân lý ngã không, và pháp không - Không phải là pháp thế gian, nên không thể mô tả bằng lời nói, chân lý đó “xa lìa tướng danh ngôn, tâm tư cũng không nghĩ bàn được”. Đó là chân lý rốt ráo, mà tính Phật miễn cưỡng gọi là “chân pháp giới” là “lý chân như”.
Lại phải cần rõ biết vô minh trong 4 đế, tức là không biết được 4 cái sự thật.
  1. mọi hiện hữu là khổ.
  2. thích cái gì cũng là thích trong khổ.
  3. muốn hết khổ đừng thích trong khổ nữa.
  4. sống bằng 3 nhận thức trên chính là hành trình thoát khổ.
Khi không biết mới Vô minh nên mới có chuyện là chúng ta làm các nghiệp thiện ác nhưng có biết đâu khi mà chúng ta tạo nghiệp thiện ác có nghĩa là chúng ta đang kín đáo, âm thầm, lặng lẽ tạo ra các tâm đầu thai mà ta luôn nghĩ rằng là không thấy nên nói rằng nó không có chứ đó là khi duyên chưa hội đủ điều kiện đó mà thôi.

Thế nhưng, chân lý rốt ráo đó của Phật giáo, tuy là không đặt tên được, không nghĩ bàn được, nhưng nó vẫn không tách rời muôn vàn hiện tượng thế gian, và mỗi hiện tượng thế gian là một bộ phận của chân lý rốt ráo đó”.
Vì vậy, Tổ Huệ Năng của Thiền tông nói rằng: “Phật pháp là ở thế gian, không tách rời thế gian mà giác ngộ được; nếu tách khỏi thế gian đi tìm đạo Bồ đề, cũng không khác gì đi tìm sừng thỏ vậy”.

Và Phẩm “Du già chân thực nghĩa” gọi Chân lý là chân thực tức “như thị” .

Trộm nghĩ : “Mục đích tu hành không phải để được cái gì mà phải coi mình buông được cái gì.“ Đó là tinh thần cao đẹp nhất của đạo Phật.

Giáo Sư Lakshmi Nasaru, trong “Tinh Hoa của Phật giáo" đã phát biểu :
“Phật giáo nhằm tạo trong mỗi cá nhân một sự chuyển hóa nội tâm bằng cách tự chiến thắng lấy mình. Không nhờ đến sức mạnh và tiền bạc hay cả đến sự chinh phục để tác động mọi người vào đạo mà Đức Phật chỉ rõ một con đường giải thoát duy nhất để cho cá nhân tự quyết định nếu muốn theo tôn giáo này.
Với Tam pháp ấn hay còn gọi là Tam Tướng của vạn vật mà người học Phật cần ghi nhớ là Khổ- Vô thường - Vô Ngã.
——Về KHỔ Trong kinh nói thế giới này có ba cái khổ.
Cái khổ thứ nhất là phải sống gần người hoặc vật mà mình ghét. đó là KHÔR KHỔ
Cái khổ thứ hai là phải xa người hoặc vật mà mình thích.gọi là HOẠI KHỔ
Cái khổ thứ ba là bản thân sự có mặt này là khổ rồi.được định nghĩa cho HÀNH KHỔ
Và trong kinh ghi rất rõ…
Người hạ căn, trình độ thấp, họ cầu đạo giải thoát là vì họ muốn trốn cái khổ thứ nhất. Tức là họ sợ chịu đựng cái mà họ không thích
Cái hạng thứ hai, khi mà họ phải chia xa, mất mát cái họ thích, thì cái đó đối với họ là đủ để họ sợ rồi.
Cái hạng thứ ba là bậc thượng thừa, vì đối với họ chỉ cần một dấu hỏi thôi. "Cái cuộc sống này sẽ dẫn về đâu? Cái ý nghĩa rốt ráo, tối hậu của cuộc hiện hữu này là gì?". Đó là một con số không to tướng.
——Về Vô Thường, tất cả đều phải theo tiến trình Thành, Trụ, Hoại, Diệt , hay Sinh Lão , Bịnh, Tử…. Giáo lý vô thường ấy là chân lý của cuộc sống, cho nên đứng về phương diện ý niệm mà xét ta thấy vô thường là tính thay đổi (về phương diện thời gian).
Tuy nhiên thực ra vô thường không hẳn như thế, cho dù vô thường là tiến trình của cái chết, nhưng đồng thời cũng là chìa khóa của sự tái sinh (pháp Duyên sinh) và nguyên lý pháp này, rất cần thiết cho sự hành đạo.

Nhờ quán vô thường mà Thái tử Sĩ Đạt Đa khai mở được trí tuệ Vô thượng, trở thành bậc toàn giác, và là đạo sư của hàng Trời - Người.
Tổ Đạt Ma khai thị lý vô thường bằng câu: “Phiền não là hạt giống của Bồ-đề”. Bồ-tát Long Thọ từng nói lời sấm sét: “Nhờ vô thường, vô ngã…nên tất cả có thể thành tựu”. Lịch sử tiến hóa của nhân loại qua các nền văn minh đều trải qua chân lý vô thường.

Một giáo lý “không thời gian” đã từng hiện hữu trong nhiều thế kỷ mà vẫn còn nguyên giá trị tươi mới “như nó đang có”, bởi nó luôn phù hợp và có thể áp dụng một cách hữu ích với mọi thời đại, cùng các nền văn minh khác nhau.

——-Và về tính không đồng nhất, gọi là vô ngã (không có cái ta tồn tại); về phương diện không gian và khoảng thời gian (cực ngắn) đạo Phật gọi là sát na. Sự biến đổi không ngừng ấy không chỉ diễn ra ở thế giới này mà cả tại các thế giới khác. Từ hạt vật chất cực nhỏ như nguyên tử cho đến thế giới tâm thức là con người, hết thảy là các tập hợp duyên sinh nên nhất thiết phải chịu sự tác động của vô thường.

Người tu học chân chính cần thấy rằng giáo lý Vô thường là một “chân lý hiển nhiên” đó là Thành-Trụ-Hoại-Không, là sự vận hành của biến dịch âm dương trong hiện tượng giới, tức tam giới.
Chỉ do giác ngộ thấy lẽ thực, sống bằng lẽ thực; không sống dựa “cầu xin” hay ỷ lại vào một ai cả, tự nhiên hết khổ. Hết khổ, ắt là vui. Đạo Phật nói rõ lẽ thực rằng: có giác ngộ mới giải thoát được.
Tiến Sĩ Oldenburg, học giả người Đức cho rằng: “Đức Phật không giải thoát con người, nhưng Ngài dạy con người phải tự chính mình giải thoát lấy mình, như chính Ngài đã tự giải thoát lấy Ngài. Con người chấp nhận giáo lý của Ngài là chân lý, không phải giáo lý này đến từ nơi Ngài, nhưng vì lòng xác tín cá nhân, thức tỉnh bởi những lời Ngài dạy, trỗi dậy bởi ánh sáng trí tuệ của chính mình.
Và phải chăng nguyên tắc của trí tuệ là gì? Là cái gì cũng phải suy lý.
Có nghĩa là muốn phủ nhận cái gì thì ta cũng phải tìm lý do, mà ta muốn tin cái gì ta cũng phải tìm lý do., đó gọi là có Chánh kiến
Chánh Kiến được định nghĩa rất đơn giản:
-Một là cái thấy về lý Nhân Quả.
-Hai là cái thấy về lý Tam Tướng
.—-Chánh kiến cũng có thể thấy với hai. điều Đó là: Một là thấy rằng mọi sự ở đời do duyên là có. Hai là có rồi phải mất.
Và con đường giải thoát phải qua 37 pháp bồ đề (Thất giác chi, Bát Chánh Đạo, Ngũ quyền, Ngũ lực, Tứ như ý túc, Tứ chánh cần, Tứ Niệm Xứ) vaf cách nói phổ biến nhất là Bát Chánh Đạo.
Vì sao? Là vì thông quá Bát Chánh Đạo mình thấy rõ cái Tam Học trong đó. Chánh kiến, chánh tư duy là Tuệ học. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng thuộc về Giới học. Và còn lại là Định học.
Hai nữa, nhìn vô con số tám của Bát chánh đạo thì mình thấy được trong đó gồm có thân, khẩu, ý. Chánh ngữ là về khẩu, chánh nghiệp là về thân và phần còn lại là về ý. Đó là một cách phân tích rất là nổi tiếng.
Nói rốt ráo lại người học Phật chân chính cần phải thấy được “Hạnh phúc không đáng để mình ước mơ và đau khổ không đáng để mình sợ hãi” vì cái khổ nó không có lâu, cho nên nó không có gì để mình sợ. Mà hạnh phúc nó không có đáng để mình phải đam mê vì nó rất là ngắn. Đó là nói về mặt khía cạnh thời gian.
Còn về khía cạnh bản thể, bản chất, thì vì đâu mà có cái thích đó do tiền nghiệp, khuynh hướng tâm lý và môi trường sống trong cái tập đế ( nguyên nhân chính là tham ái từ đó mới có cái thích, cái ghét. Vì có cái thích và cái ghét cho nên mới có đau khổ và hạnh phúc .
Người Phật tử chân chính là người họ phải thấy rằng bản thân cái sự có mặt trên đời này là một cái gánh nặng .Vì trong Đạo và đời họ đều phải cư xử sao cho mối quan hệ giữa người và người thật tốt đẹp.
Có phải biết nói năng là nghệ thuật sống .?
Trải kinh nghiệm cuộc đời….Chánh ngữ rất cần
Trọn kiếp người, chỉ đổi nhiệm sở hai lần thôi
Một tại quê hương và một nơi hải ngoại
Đừng tưởng không chút cầu tiến… biết tiến thoái !
Suy cho cùng chính là thái độ muốn an yên
Nơi nào được người dưới hỗ trợ, vừa lòng cấp trên
Là thể hiện được mối quan hệ đúng cách !
Từ đó dành
thời gian học hỏi để hoàn thành trọng trách
Tất nhiên lúc nào cũng lấy thành tín làm đầu
Không quá khách sáo, trái tim cảm thông nhau
Biết thể hiện công nhận giá trị nào sâu sắc !
Xử lý thật khéo léo mỗi khi có khúc mắc
Rằng nghiệp duyên mới có họa tại này
Một lần lỡ lời, khó thay đổi cuộc diện ngay
Chấp nhận lỗi mình cách tích cực, chuyên nghiệp
Đừng quá nhạy cảm bất mãn …
tỏ ra mình thông minh, mẫn tiệp !,
Dần dần thay đổi nhận thức thái độ, hành vi
Không quá mềm lòng, để giữ mãi duy trì
Nghệ thuật sống trong đạo, đời … thu nhiếp !!
(Thơ Huệ Hương )
Trở lại cái nhìn “như thị” của đạo Phật.
Muốn có cái nhìn như thực ấy thật không dễ, bởi thấy được lẽ thật đồng thời cũng biết được những cái không thật, cho nên phải có trí tuệ.
Muốn có trí tuệ thì phải “lấy sự nghe, sự suy nghĩ, sự tu tập để phát triển trí tuệ” (kinh Di giáo). Và đó là tự thân của mỗi người nên chỉ có tự mình nỗ lực học và tu, không ai có thể làm thay mình được.

Vì vậy Quá trình “ngộ” trong Phật giáo là quá trình bài trừ những quấy nhiễu không cần thiết gọi là bài trừ mọi phiền não. Do đó “ngộ” là tự ngộ, không ai thay cho ai được cả.
Trí tuệ để diệt trừ phiền não của nhà Phật được gọi là trí tuệ Vô lậu.
Nó là một trong ba môn học rất căn bản trong hệ thống giáo dục Phật giáo được gọi là: “Tam vô lậu học”- ba môn học để diệt trừ phiền não. Tam vô lậu học ấy là “Giới-Định-Tuệ”.

Và hầu hết các kinh điển Phật giáo, trí tuệ luôn được đề cao và được xem là “tối thắng nhất trên đời”. Còn nhớ giây phút cuối cùng trước khi nhập Niết-bàn, đức Phật đã nói lời khẩn thiết với các đệ tử là phải luôn luôn trau dồi trí tuệ và coi “Trí tuệ là chiếc thuyền kiên cố chở qua khỏi biển già, bệnh, chết; là ngọn đèn lớn chiếu phá vô minh hắc ám, là liều thuốc hay cho hết thảy bệnh tật, là chiếc búa sắt chặt gẫy cây phiền não…” (kinh Di giáo).
Kính thưa quý đạo hữu, đây là những gì được học hỏi nhiều năm kính xin trình bày qua lời dạy Thầy, Tổ và kính mạn phép được chia sẻ một pháp thoại mà mình thấy hữu ích nhất cho sự tu tập qua lời giảng của HT Viên Minh sau đây:
TÁNH BIẾT LÀ PHÁP MÔN NỔI TRỘI NHẤT
Lời kết:
Mời các bạn chiêm nghiệm lời nhận xét thật chính xác về Đạo Phật để học được những gì tinh hoa nhất đã được thể hiện nơi Đức Đạo Sư siêu việt của chúng ta đoán là sự kết hợp gần như độc nhất của một đầu óc khoa học trầm tĩnh và thiện cảm sâu xa của lòng từ tâm để từ đó đi theo con đường chân chính.
Và kính xin mượn lời của nhà bác học Albert Einstein “"Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học"…. "Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó".

Và Đạo đức Kinh của Lão Tử có câu: “Theo học (tức học thế gian) ngày càng thêm, theo đạo ngày càng bớt” (vi học nhật ích, vi đạo nhật tổn) là dụng ý nói về sự đối lập giữa nghiên cứu, suy luận, tưởng tượng của thế gian trí và thiền Thanh tịnh (tức Như Lai thanh tịnh thiền) với Chân nghĩa bản thể của Tuệ vô lậu

Kính trân trọng chia sẻ
Huệ Hương
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/08/2018(Xem: 7792)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
05/08/2018(Xem: 3622)
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã mấy chục năm theo bốn mùa thay lá thay hoa và đời riêng của mỗi người có quá nhiều đổi thay. Ngồi nhớ lại những kỷ niệm thời còn đi dạy trường Sương Nguyệt Anh, biết bao nhiêu vui buồn lẫn lộn ngập tràn làm xao xuyến cả tâm tư! Hình ảnh buổi lễ bế giảng năm học 1978 bỗng rõ lên trong ký ức tôi như một đóm lửa nhóm trong vườn khuya. Năm đó tôi dạy tới ba bốn lớp 12, lớp thi nên cả Thầy trò mệt nhoài. Không đủ giờ ở lớp nên nhiều khi tôi phải vừa dạy thêm vào sáng Chủ Nhật, vậy mà các em vẫn đi học đầy đủ. Tới ngày bế giảng Cô trò mới tạm hoàn tất chương trình, như trút được gánh nặng ngàn cân ! Hôm đó, tôi lại được Ban Giám Hiệu phân công trông coi trật tự lớp 12C1, có nghĩa là phải quan sát bắt các em ngồi ở sân trường phải yên lặng chăm chú theo dõi chương trình buổi lễ, nghe huấn từ của ban Giám Hiệu.
03/08/2018(Xem: 3575)
ĐA TẠ VÀ TRI ÂN Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông Không hiểu từ bao giờ khi đã bước vào thế giới triết học, khoa học và tôn giáo của Đạo Phật, mặc dù nghe rất nhiều pháp thoại đủ mọi trình độ tôi vẫn không tin có THỜI MẠT PHÁP. Vì sao vậy? Có lẽ lý do tôi biện minh sẽ không được nhiều người chấp nhận, nhưng theo thiển ý của tôi, từ khi nền công nghệ văn minh vi tính hiện đại phát triển, ta không cần chờ đợi một quyển sách được in ra và chờ đợi có phương tiện thích nghi để giữ nó trong tủ sách gia đình, ta vẫn có thể theo dõi qua mạng những bài kinh luật luận được dịch từ tiếng Pali hay Sankrit hoặc những bản Anh Ngữ, Pháp ngữ mà người đọc dù có trình độ học vấn vào mức trung trung vẫn không tài nào hiểu rõ từng lời của bản gốc.
03/08/2018(Xem: 11913)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
29/07/2018(Xem: 4069)
Nhà văn Hoàng Mai Đạt --cũng là Chủ Bút Nhật Báo Viễn Đông -- cho biết số báo ra mắt đã mất nhiều tháng mới làm xong, nhưng hy vọng tương lai sẽ được chư tôn đức Tăng Ni và quý cư sĩ hỗ trợ để thuận lợi cho việc hoằng pháp. Số ra mắt Tinh Tấn Magazine in trên giấy láng, nhiều màu, dày 90 trang, khổ báo tạp chí. Trong số ra mắt Tinh Tấn Magazine, có nhiều bài tập trung chủ đề Quan Thế Âm Bổ Tát hoặc chủ đề từ bi, trong đó có bài: Hạnh Nguyện Cứu Độ Chúng Sanh của Đức Quán Thế Âm (tác giả HT Thích Tịnh Từ);
21/06/2018(Xem: 3538)
Phần này bàn về các cách gọi thời gian như giờ, ngày, tháng trong tiếng Việt vào thời LM de Rhodes sang An Nam truyền đạo. Tài liệu tham khảo chính của bài viết là các tác phẩm Nôm của LM Maiorica và Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), Phép Giảng Tám Ngày (PGTN) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
14/06/2018(Xem: 11086)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
09/06/2018(Xem: 6925)
Tóm lược Khác với hầu hết những cộng đồng sắc tộc tại Úc Châu, người Việt đã đến đây thật đông đảo trong một thời gian tương đối ngắn, khi xã hội văn hóa đa nguyên của đất nước định cư nầy hãy còn trong tình trạng non trẻ. Sự hiện diện của một cộng đồng thiểu số Châu Á mà hình dáng bên ngoài dễ nhìn thấy, dễ nhận dạng, đã là một thách đố lớn lao cho giới lãnh đạo chính trị tại Úc, và sự bao dung của công chúng Úc nóí chung.
21/05/2018(Xem: 13540)
Một Cõi Đi Về Thơ & Tạp Bút Tập 3_Thích Phước Thái
10/05/2018(Xem: 4431)
Đó là tên được đặt cho tác phẩm nhiếp ảnh đầu tiên của tôi. Ảnh chụp năm 1993, bằng Máy ảnh Pentax cũ, mua được từ Tòa soạn Báo Khánh Hòa đợt thanh lý, với giá thời điểm đó là 100.000 đồng. Người mẫu: "Con gái rượu" Tịnh Thủy lúc được 2 tuổi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]