Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vai Trò Của Người Cư Sĩ Phật Tử

15/02/202314:16(Xem: 3179)
Vai Trò Của Người Cư Sĩ Phật Tử


tv quang duc-2

Vai Trò Của
Người Cư Sĩ Phật Tử



Thế giới ngày nay mà chúng ta gọi là “thời đại mới” đổi thay đến chóng mặt, tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống trong đó có tôn giáo. Tuy không có “thánh chiến” được công khai tuyên bố, nhưng cạnh tranh để bành trướng, giành giật tín đồ, mua chuộc dưới mọi hình thức để cải đạo, kể cả bằng bạo lực đã diễn ra hàng ngày và gần như trên quy mô toàn cầu.

Điều này dễ hiểu bởi vì khi tín đồ bành trướng thì sức mạnh chính trị bành trướng. Khi sức mạnh chính trị bành trướng thì khống chế được chính quyền hoặc chiếm đoạt được chính quyền. Khi chiếm đoạt được chính quyền thì chính quyền là phương tiện mạnh nhất để áp đặt hoặc bành trướng hoặc cải đạo hàng loạt. Chính Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đã nói lên lời cảnh báo về kế hoạch cải đạo quy mô mà Á Châu là mảnh đất màu mỡ nhất để thi hành kế hoạch này. Đức Đạt Lai Lạt Ma gọi đó là “chiến tranh văn hóa”.

Trước tình hình đó hàng ngũ tăng-ni, một mình không đủ sức đảm đương mọi chuyện mà cần có sự trợ giúp của mọi tầng lớp Phật tử và cư sĩ tại gia, không ngoài mục đích gìn giữ tín đồ và sự trường tồn của đạo pháp và giữ gìn bản sắc dân tộc. Một dân tộc không có bản sắc chỉ là khối “ngoại kiều” tạp chủng sống trên cùng một đất nước. Khi đất nước không có bản sắc – tức không có một dòng chính văn hóa  và tâm linh (mainstream) thì dân tộc khó đoàn kết.  Khi đó lực lượng chính trị sẽ “vọng ngoại” để tìm chỗ dựa, nói khác đi đất nước sẽ bị ngoại bang khuynh loát. Chính vì thế mà các quốc gia Âu Châu và Hoa Kỳ đã nổi lên những chủ trương bảo vệ Thiên Chúa Giáo khi số dân không phải Da Trắng khác đạo, khác văn hóa gia tăng trên đất nước họ.

Nói về cư sĩ tu tại gia, họ không phải ai xa lạ - trước hết họ là Phật tử - nhưng là một Phật tử không bình thường.  Người cư sĩ Phật tử có những đặc điểm như sau:

-Người cư sĩ tại gia, ngoài việc tụng kinh niệm Phật, hành thiền như các Phật tử bình thường, họ còn có khả năng nghiên cứu kinh điển. Rất nhiều vị là các nhà học Phật uyên bác có khả năng luận giải kinh điển, giảng dạy, hành lễ và thuyết pháp. Những đỉnh cao chói lọi của hàng cư sĩ trong quá khứ phải kể tới Vua A Dục của Ấn Độ, Lương Vũ Đế của Trung Hoa, Vua Lý Thái Tổ của Việt Nam. Và lịch sử Việt Nam cận đại phải ghi công các bậc cư sĩ lỗi lạc như Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Lê Đình Thám, Nguyễn An Ninh, học giả Đoàn Trung Còn, Thu Giang Nguyễn Duy Cần, Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục.  Mới đây có Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng, Phạm Công Thiện, một số cư sĩ tiếp nối như Tâm Diệu, Nguyên Giác, Hoang Phong, Vĩnh Hảo và rất nhiều cư sĩ khác viết về Phật pháp không biết mệt mỏi, các dịch giả như Trúc Thiên, Phạm Kim Khánh và nhà soạn Từ Điện Phật Học Anh-Việt-Pali Thiện Phúc v.v…

-Một số không có khả năng nghiên cứu Phật học thâm sâu, do tín tâm cao, do tu hành tinh tấn hoặc đáp ứng được nhu cầu thiết thực của đời sống đã quy tụ được một số đông Phật tử qua công tác hộ niệm, ủy lạo, thiện nguyện, xây cầu, xây đường, mở quán cơm chay miễn phí, phát quà cho những gia đình nghèo, thăm viếng bệnh nhân gặp khó khăn…từ đó góp quan trọng vào việc gìn giữ tín đồ và xoa dịu phần nào những khổ đau của xã hội mà không một nhà cầm quyền nào có thể chu toàn trách nhiệm. Trong và ngoài nước hiện nay hình thành rất nhiều nhóm cư sĩ Phật tử như thế này.

-Cư sĩ Phật tử có thể là các thương gia giàu có chẳng hạn như Ông Cấp Cô Độc năm xưa là đại phú thương. Khi các đại phú thương phát Bồ Đề Tâm thì họ có thể để lại những di sản rất lớn. Chẳng hạn như nhờ Ông Cấp Cô Độc dám trải vàng mua vườn thượng uyển của Thái Tử Kỳ Đà thỉnh Phật thuyết pháp mà ngày nay chúng ta mới có bộ Kinh A Di Đà. Hiện nay trong nước có rất nhiều đại phú thương phát Bồ Đề Tâm bằng cách bỏ ra cả triệu Mỹ Kim để kiến tạo những ngôi chùa nguy nga, khu du lịch tâm linh, sưu tầm ngọc quý sau đó tôn tạo tượng như: tượng Phật ngọc, tượng Phật Bà Quan Ấm và tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Chắc chắn những pho tượng này sẽ cùng trường tồn với dân tộc.

-Người cư sĩ Phật tử có thể là những nghệ sĩ. Nếu là nghệ sĩ lớn, tác phẩm của họ có thể trở nên bất tử , lưu truyền rộng rãi trong dân chúng chẳng hạn như bài thơ Lửa Từ Bi của thi sĩ Vũ Hoàng Chương làm trong  Pháp Nạn 1963 cách đây 50 năm. Hiện nay ở trong nước, nhà thơ Phạm Thiên Thư được tôn vinh vì những bài thơ đượm mùi Thiền của ông trong thi tập nổi tiếng Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng. Còn nhạc sĩ Phạm Duy lại được ngưỡng mộ vì những bài Thiền Ca và Đạo Ca. Chúng ta nên nhớ, đối với bậc tu hành giải thoát thì ca hát có khi chỉ là phiền não nhưng đối với quần chúng Phật tử thì thi ca, phim ảnh, giải trí lại là phương tiện truyền đạt hữu hiệu nhất. Chúng ta có thể nói mà không sợ sai lầm rằng chỉ cần nhìn vào số lượng thiền ca, Phật nhạc, đạo ca, phim ảnh, truyện Phật giáo được phổ biến trong quần chúng, chúng ta có thể nói đạo pháp thịnh hay suy.

-Người cư sĩ Phật tử có thể là quốc vương, hoàng hậu, thứ phi, công chúa, đại thần hoặc những vị nắm giữ những vai trò quan trọng trong chính phủ. Hầu hết các ngôi cổ tự  của Việt Nam mà ngày nay đã trở thành di tích lịch sử đều do các vị này lập ra. Tôi có đọc một bài nghị luận trong nước nói rằng nếu Thiền Sư Vạn Hạnh và Thiền Sư Lý KhánhVân cho Lý Công Uẩn xuất gia thì bất quá Lý Công Uẩn chỉ trở thành môt danh tăng chứ không thể đưa dân tộc Đại Việt vào một thời kỳ huy hoàng như vậy. Do đó, trong bất kỳ thời đại nào, nếu lãnh đạo đất nước lại là những vị có lòng với Dân Tộc và Đạo Pháp thì chắc chắn Đạo Pháp sẽ hưng thịnh.

-Sau hết, cư sĩ có thể là các cơ quan truyền thông. Nếu họ có lòng, có trình độ thì truyền thông sẽ là phương tiện mạnh mẽ nhất để hộ pháp và hoằng pháp.  Hiện nay tại hải ngoại có những tạp chí và hệ thống truyền thông do cư sĩ điều hành nổi tiếng như Thư Viện Hoa Sen, Bodi Media, nguyệt san Chánh Pháp và nguyệt san Tinh Tấn.

Hiện nay tại Âu Châu, Hoa Kỳ các tôn giáo cổ truyền đang suy thoái trầm trọng và có khả năng đất nước Hoa Kỳ và Âu Châu sẽ thay đổi diện mạo trong vài chục năm tới. Theo tờ The Guardian ngày 22/1/2023,  nhà thờ ở Mỹ đang phải đóng cửa với số lượng tăng nhanh khi mà giáo đoàn khắp đất nước giảm và thế hệ trẻ từ bỏ Thiên Chúa Giáo cho dù Thiên Chúa Giáo vẫn thống trị nền chính trị Hoa Kỳ. Khoảng 4500 nhà thờ Tin Lành hệ phái Prostestan đóng cửa năm 2019.

Theo www.youtube.com/watch?v=Rfx4glTU5JQ  mỗi năm có 20,000  người Hoa Kỳ và 70,000 người Pháp cải đạo sang Hồi Giáo. Theo www.independent.co.uk  mỗi năm có 5000 người Anh cải đạo sang Hồi Giáo. Trước thực tế đó họ phải “mở một đường máu” sang Châu Á để để bù đắp lại số tín đồ đã mất trong khi Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh đã bão hòa. Trong khi chúng ta ngồi đây thì từng đoàn gọi là “thiện nguyện” đang tiến sâu vào các vùng xa xôi của Mông Cổ, Miến Điện, Tích Lan, Tây Tạng, Tây Nguyên v.v... nói là để giúp đỡ nhưng thực chất là để dụ dỗ cải đạo ngay tại chỗ. Các vùng đồng bằng mà đời sống dân chúng còn khó khăn, các vùng cao nguyên, rừng núi hoang vu bao gồm nhiều sắc dân thiểu số là mảnh đất màu mỡ để thi hành kế hoạch này. Chỉ cần phái đoàn gọi là “thiện nguyện” đó tới phát quà, khám bệnh, phát thuốc và hứa hẹn một đời sống huy hoàng kiểu Mỹ hoặc sẽ được đi Mỹ… thì cả một buôn làng có thể tân tòng theo đạo mới. Thủ đoạn dùng “chiếc bánh ở trên trời” luôn luôn thành công đối với tầng lớp nghèo khổ, túng quẫn. Họ cần bất cứ cái phao nào, dù là một cọng rơm để bám. Chúng ta không trách họ được. Họ là nạn nhân.

Tuy vấn đề cấp bách như thế nhưng trong hàng cư sĩ Phật tử tôi thấy không có nhiều vị quan tâm. Tôi nghĩ rằng đã đến lúc hàng cư sĩ Phật tử chúng ta phải có can đảm nhìn vào vấn đề này.

-Trong gia đình, chúng ta phải thẳng thắn giáo dục con cái về nạn cải đạo qua hôn nhân.

-Những Phật tử  trên giường bệnh trước giờ phút lâm chung vì không có tăng/ni hộ niệm hoặc hộ niệm các chùa tính giá đắt quá đã bị cướp đi linh hồn.

-Những  Phật tử túng thiếu cũng chỉ vì sự giúp đỡ nhỏ mà nỡ vứt đi đạo ông bà. Giới trẻ gia đình gốc Phật Giáo nhưng không am hiểu giáo lý, tham dự những cuộc vui chơi có mục đích “dụ đạo” cũng dễ dàng bỏ đạo.

-Con gái lấy chồng Đại Hàn tân tòng theo đạo mới, trở về nước cải đạo ngay ông bà cha mẹ mình. Người Việt tại Mỹ theo đạo Tin Lành du lịch Việt Nam, tới đền thờ Đức Trần Hưng Đạo họ không chịu bước vào vì họ không thờ ngẫu tượng.


Trong nước đã có một số  đề nghị chống lại sách lược cải đạo, nhưng hải ngoại thì chưa thấy. Tôi chưa hình dung được kế hoạch “phản cải đạo” phải bao gồm những bước như thế nào. Nhưng theo tôi có hai bước quan trọng:

-Thứ nhất: Bản thân chúng ta là một Phật tử phải ý thức được giá trị cao cả của Đạo Phật. Đạo Phật đang từng bước trở thành lương tri của nhân loại cho nên dù hoàn cảnh nào đi nữa cũng phải giữ tâm Bồ Đề cho kiên cố, tức không bao giờ bỏ đạo. Để minh chứng cho sự cao thượng của Phật Giáo tôi xin ghi ra đây lời nói chân tình của một Phật tử người Mỹ tên John vừa được được Phật tử tên Huyền Lam dịch ra Việt ngữ và đưa lên mạng lưới toàn cầu, ”Suốt mấy năm nghiên cứu Phật giáo, đến thiền đường này, không một ai khuyên tôi quy y làm người Phật tử. Tôi rất ngạc nhiên và ngưỡng mộ cách hành xử của người con Phật. Tuy nhiên điều làm tôi và cả thế giới ngỡ ngàng khâm phục hơn cả chính là sự kiện hai thánh tích Phật giáo bị Taliban phá hủy. Trong niềm tiếc thương vô biên, người Phật tử toàn thế giới không hề có một lời kêu gọi trả thù hay phỉ báng tôn giáo của những người gây ra hành động này. Cá nhân tôi bàng hoàng, rung chấn con tim tận cùng khi nhận ra rằng: Trong sự mất mát không thể bù đắp này, nhân loại thế giới đang có cơ hội hiếm hoi chiêm nghiệm thành qủa của một tôn giáo mà lòng từ bi, trí tuệ không phải chỉ trong sách vở. Không phải chỉ thể hiện qua một người, vài người mà hằng trăm triệu người con Phật. Tôi quyết định quy y để chính thức làm một người Phật tử nhỏ bé trong mấy trăm triệu người này.”

-Thứ hai: Đối với tập thể, phải có kế hoạch hoạt động xã hội, thiện nguyện bao gồm luôn cả công tác văn hóa theo tinh thần thực tiễn “Có thực mới vực được đạo” để hoằng dương chánh pháp và giữ gìn tín đồ.  Chúng ta không thể mơ màng sống với hào quang đạo Phật là đạo tốt lành nhất để rồi năm mười năm nữa, bừng mắt dậy thấy Đạo Phật trở thành thiểu số trên chính quê hương mình.

-Thứ ba: Chúng ta phải đánh bật quan điểm sai trái cho rằng Đạo Phật yếm thế và hư vô hóa cuộc đời. Chúng ta phải viết làm sao, tu làm sao, sống làm sao để cho thấy Đạo Phật tôn trọng và mở mang trí tuệ cho con người. Với Đạo Phật, nhân loại sẽ sống trong tình huynh đệ, bình đẳng, không  hận thù, kỳ thị. Đạo Phật là viên thuốc bổ, là nước Cam Lồ giải thoát giúp con người sống có trách nhiệm, đạo đức giữa một thế giới ngày càng trở nên căng thẳng, khó khăn và đầy bạo động. Mục tiêu tối hậu của Đạo Phật là giúp chúng ta sống hạnh phúc, an vui, nhẹ nhàng mà không tổn hại tới ai qua con đường Bát Chánh Đạo và Thập Thiện.

Thiện Quả Đào Văn Bình






 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/08/2018(Xem: 7779)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
05/08/2018(Xem: 3619)
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã mấy chục năm theo bốn mùa thay lá thay hoa và đời riêng của mỗi người có quá nhiều đổi thay. Ngồi nhớ lại những kỷ niệm thời còn đi dạy trường Sương Nguyệt Anh, biết bao nhiêu vui buồn lẫn lộn ngập tràn làm xao xuyến cả tâm tư! Hình ảnh buổi lễ bế giảng năm học 1978 bỗng rõ lên trong ký ức tôi như một đóm lửa nhóm trong vườn khuya. Năm đó tôi dạy tới ba bốn lớp 12, lớp thi nên cả Thầy trò mệt nhoài. Không đủ giờ ở lớp nên nhiều khi tôi phải vừa dạy thêm vào sáng Chủ Nhật, vậy mà các em vẫn đi học đầy đủ. Tới ngày bế giảng Cô trò mới tạm hoàn tất chương trình, như trút được gánh nặng ngàn cân ! Hôm đó, tôi lại được Ban Giám Hiệu phân công trông coi trật tự lớp 12C1, có nghĩa là phải quan sát bắt các em ngồi ở sân trường phải yên lặng chăm chú theo dõi chương trình buổi lễ, nghe huấn từ của ban Giám Hiệu.
03/08/2018(Xem: 3569)
ĐA TẠ VÀ TRI ÂN Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông Không hiểu từ bao giờ khi đã bước vào thế giới triết học, khoa học và tôn giáo của Đạo Phật, mặc dù nghe rất nhiều pháp thoại đủ mọi trình độ tôi vẫn không tin có THỜI MẠT PHÁP. Vì sao vậy? Có lẽ lý do tôi biện minh sẽ không được nhiều người chấp nhận, nhưng theo thiển ý của tôi, từ khi nền công nghệ văn minh vi tính hiện đại phát triển, ta không cần chờ đợi một quyển sách được in ra và chờ đợi có phương tiện thích nghi để giữ nó trong tủ sách gia đình, ta vẫn có thể theo dõi qua mạng những bài kinh luật luận được dịch từ tiếng Pali hay Sankrit hoặc những bản Anh Ngữ, Pháp ngữ mà người đọc dù có trình độ học vấn vào mức trung trung vẫn không tài nào hiểu rõ từng lời của bản gốc.
03/08/2018(Xem: 11818)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
29/07/2018(Xem: 4060)
Nhà văn Hoàng Mai Đạt --cũng là Chủ Bút Nhật Báo Viễn Đông -- cho biết số báo ra mắt đã mất nhiều tháng mới làm xong, nhưng hy vọng tương lai sẽ được chư tôn đức Tăng Ni và quý cư sĩ hỗ trợ để thuận lợi cho việc hoằng pháp. Số ra mắt Tinh Tấn Magazine in trên giấy láng, nhiều màu, dày 90 trang, khổ báo tạp chí. Trong số ra mắt Tinh Tấn Magazine, có nhiều bài tập trung chủ đề Quan Thế Âm Bổ Tát hoặc chủ đề từ bi, trong đó có bài: Hạnh Nguyện Cứu Độ Chúng Sanh của Đức Quán Thế Âm (tác giả HT Thích Tịnh Từ);
21/06/2018(Xem: 3537)
Phần này bàn về các cách gọi thời gian như giờ, ngày, tháng trong tiếng Việt vào thời LM de Rhodes sang An Nam truyền đạo. Tài liệu tham khảo chính của bài viết là các tác phẩm Nôm của LM Maiorica và Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), Phép Giảng Tám Ngày (PGTN) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
14/06/2018(Xem: 11053)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
09/06/2018(Xem: 6913)
Tóm lược Khác với hầu hết những cộng đồng sắc tộc tại Úc Châu, người Việt đã đến đây thật đông đảo trong một thời gian tương đối ngắn, khi xã hội văn hóa đa nguyên của đất nước định cư nầy hãy còn trong tình trạng non trẻ. Sự hiện diện của một cộng đồng thiểu số Châu Á mà hình dáng bên ngoài dễ nhìn thấy, dễ nhận dạng, đã là một thách đố lớn lao cho giới lãnh đạo chính trị tại Úc, và sự bao dung của công chúng Úc nóí chung.
21/05/2018(Xem: 13450)
Một Cõi Đi Về Thơ & Tạp Bút Tập 3_Thích Phước Thái
10/05/2018(Xem: 4425)
Đó là tên được đặt cho tác phẩm nhiếp ảnh đầu tiên của tôi. Ảnh chụp năm 1993, bằng Máy ảnh Pentax cũ, mua được từ Tòa soạn Báo Khánh Hòa đợt thanh lý, với giá thời điểm đó là 100.000 đồng. Người mẫu: "Con gái rượu" Tịnh Thủy lúc được 2 tuổi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]