Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hãy để yên quá khứ - Có những vấn đề lý trí không thể nghĩ bàn.

03/11/202204:22(Xem: 3074)
Hãy để yên quá khứ - Có những vấn đề lý trí không thể nghĩ bàn.


canh dep-16
Hãy để yên quá khứ -

Có những vấn đề lý trí không thể nghĩ bàn.

Cứ mỗi lần tôi gặp một vấn đề nan giải và muốn đầu hàng ( có nghĩa là muốn buông tất cả ) thì một danh ngôn của St Exupery ngày nào …..mà trong quá khứ khi vừa 17 tuổi đời tôi đã treo, dán khắp nơi trong nhà để sách tấn cho sự nghiệt ngã của đường đời mà gia đình tôi đã gặp “ TRÊN CON ĐƯỜNG SỐ MỆNH VẠCH SẴN CHO NGƯƠI, NGƯƠI HÃY LÀM XONG SỨ MỆNH RỒI HÃY GỤC ĐẦU MÀ CHẾT “.

Và cứ thế tôi lại phấn đấu tích cực với tất cả khả năng mình có, trải dài trong kiếp sống nhân sinh này cho đến ngày tôi muốn retire ( an dưỡng tuổi già ) thì câu nói này lại chợt hiện ra cho dù tôi đã bao năm tu học hiểu về nghiệp duyên, nhân quả.

Có thể nói phải trải qua bao nhiêu nghịch cảnh, vấn nạn hoặc những điều tốt đẹp mang đến bất ngờ chúng ta phải công nhận một điều: Mọi chuyện đều do nhân duyên mà có. Cái gì đến với mình đều có liên quan với nhân quả nghiệp báo.

Người nên đến thì sẽ đến
Người nên đi bạn không có cách nào níu giữ được
Đừng ép người, đừng ép mình
Đừng bận tâm đau lòng vì một chuyện
Buông bỏ chấp niệm, vạn sự tuỳ duyên
——Đây mới chính là cuộc sống
( đâu đó trên mạng - không biết tác giả)

Hẳn bạn và chúng mình đều biết “Mỗi người sinh ra đều có duyên nghiệp của họ tương ứng với những bài học mà pháp đưa đến”
Thầy tôi thường dạy “Tu đúng là chỉ thấy, buông và tuỳ duyên đối trị thôi chứ không phải để được điều gì. “

—Con cứ sống trọn vẹn tỉnh thức với thực tại thân-tâm-cảnh như nó đang là, không tham ưu lấy bỏ, không nương tựa bám víu bất cứ điều gì thì đó chính là buông, mặc dù con đang sống trong mối quan hệ, danh vọng, công việc v.v...

Và nên nhớ rằng: Đừng bao giờ muốn xoá đi quá khứ. Hãy để quá khứ yên đó, và ta chỉ cần trở về trọn vẹn tỉnh thức với hiện tại
 Quá khứ sao phải quên, nó đã được lưu trữ kỹ càng trong bộ nhớ, là kho tài liệu cần thiết khi cần đến, Chúng chính là những bài học quý giá giúp ta chuyển hoá nhận thức và hành vi. Một khi nó bị xóa đi như ( trường hợp những người bị tai biến) muốn nhớ lại cũng không được mới khổ.

Nên nhớ rằng: Không có quá khứ là rác, sẽ không có hoa thơm trái ngọt bây giờ vì một hạt giống nẩy mầm trong đống rác nhưng rác đã trở thành nhựa cây nuôi lớn sự trưởng thành và đơm hoa kết trái.

Tôi đã tư duy và chiêm nghiệm lời dạy này mãi ……”Phải chăng hầu như con người chúng ta đã luôn nhìn về hiện tại qua đôi mắt của quá khứ. Và phải chấp nhận rằng chúng ta đã luôn nhìn hiện tại qua vô vàn điều mình đã tích lũy, trải nghiệm. Và chúng ta đã luôn so sánh, nhận xét, đánh giá hiện tại một cách giả tạo và sai lệch dựa trên vô tận điều mình đã từng tích lũy”?
Cho đến khi được nghe đi nghe lại những pháp thoại về Trung Bộ Kinh nhất là
khi học đến bài kinh số 2 của Trung Bộ kinh “ Nhất thiết lậu hoặc” Phật đã dạy : Né tránh điều đáng né tránh và buông bỏ điều đáng buông bỏ đều tốt. Né tránh những điều nguy hiểm có thể hại mình hại người thì nên né tránh. Buông bỏ những điều không cần thiết chỉ trói buộc thêm thì nên buông bỏ.
Đó chính là tu, tuy nhiên cần đủ sáng suốt để thấy điều gì nên né tránh, điều gì nên buông bỏ mới được” .

Ôi, những lời khuôn vàng thước ngọc chừng nào đây tôi mới thấu triệt được lời dạy này để không còn có những giọt lệ tràn trề trong khoảnh khắc thâu đêm
Tuy nhiên trên đời này có rất nhiều chuyện một khi cầm lên thì dễ nhưng khó lòng đặt xuống, Ví như chúng ta đang lấy được một vật rất yêu thích, cầm nó một hồi thấy nặng, tuy đã mỏi tay nhưng vẫn chưa buông, vì chưa đến lúc không thể cầm được nữa... mới chịu buông!
Hơn thế, nhất là khi công việc đó đã bám rễ ăn sâu vào tâm thức nhất là khi chúng đã thành thói quen rồi thì khó kiềm chế. Và cũng có nhiều khi ta chỉ mới biết bằng lý trí, kiến thức, chưa phải thấy bằng tuệ tri. Nghĩa là khi chúng ta chưa trải nghiệm đủ để thấy ra toàn bộ sự thật.


ht-vien-minh
HT Viên Minh


Tôi đã tìm về mục hỏi đáp của Sư Phụ Viên Minh trong trang mạng điện tử Trung tâm Hộ Tông và đã uống được dòng pháp nhủ như sau :
“Con vẫn chưa thấy rõ trạng thái buông và thái độ buông khác nhau thế nào.

Buông không quan trọng ở trạng thái mà ở thái độ. Nếu là buông trạng thái thì buông được trạng thái này vẫn còn trạng thái khác, như vậy chỉ thay đổi trạng thái chứ không phải thực sự buông. Cho nên buông trạng thái thì vẫn còn là hành động hữu vi tạo tác. Buông như vậy có thể chỉ là lấy bản ngã này loại trừ bản ngã kia, hay nói dễ hiểu hơn là lấy tư tưởng buông để buông tư tưởng, và dĩ nhiên trạng thái buông ấy chỉ là kết quả của tư tưởng (bản ngã) mà thôi. 

Trong thái độ buông không có bản ngã lăng xăng tạo tác, hay nói cách khác, không có hành động buông nào cả mà ngay khi vắng bặt cái ta ảo tưởng lăng xăng tạo tác thì tánh biết liền sáng suốt, định tĩnh, trong lành  hay tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác nên gọi là buông “. 
Buông bỏ dính mắc nơi thái độ hay buông bỏ dính mắc bên ngoài? Nếu là buông trong thái độ thì:

Tự do là ung dung trong ràng buộc
Hạnh phúc là tự tại giữa khổ đau.

Còn nếu buông bỏ dính mắc bên ngoài thì lại bị ràng buộc vào thái độ "không dính mắc".

Trong một giải đáp khác Ngài đã dạy:- Có hai cách buông:
- Một là buông bỏ cái gì đã thấy ra là không cần thiết nữa, buông bỏ những dính mắc, những trói buộc, như bỏ nghiện ngập chẳng hạn.
- Hai là buông với thái độ để yên không can thiệp vào sự kiện đang diễn ra hầu có thể chứng kiến sự diễn biến của nó như thế nào.
Con không cần phải nguyện buông từ từ mà chỉ cần ngay đó thấy tức là buông, như vậy thấy cái nào sinh diệt thì chỉ trọn vẹn thấy ngay cái đó thôi, đừng nghĩ đến sẽ xử lý nó trong tương lai như một định kiến. Thực ra không nên quyết tâm buông nó dần dần vì chính nhờ nó xuất hiện con mới THẤY SỰ THẬT.

Vì sao vậy ?
Không phải buông mà thấy mới là chính. Thấy thì tự nhiên buông nhưng buông làm sao thấy được. Trừ phi buông là buông thái độ chủ quan để chỉ thấy pháp như nó là chứ không buông bỏ pháp nào. Đó mới là thái độ mà đức Phật gọi là không tham ưu, không thủ xả đối với pháp nào trên đời..
Lời kết:
Các bạn thân mến, mình đã suy tư và chiêm nghiệm từ những lời dạy trên mà học được rằng :
-Buông xả không phải là buông bỏ mà cũng không phải trốn tránh, đó là thái độ tâm chứ không phải là hành động của thân như buông bỏ hoặc trốn tránh. 

Chỉ nên buông bỏ những điều hại mình hại người do cái "ta" ảo tưởng tạo ra thôi, không nên giữ lại điều gì cả. Cái đúng tốt thì tự nó hiện hữu trong sự hoàn hảo của chính nó.

-Buông bỏ có thể là sự lựa chọn khi lý trí chưa thấy rõ sự thật. Và buông bỏ là tất yếu không lựa chọn khi trí tuệ đã thấy rõ sự thật.
Và khi mình cố quên một điều gì thì không nhớ không hẳn đã không ghi vào tiềm thức. Tiềm thức vẫn tự động lưu trữ, chỉ là do không nhớ thôi. (Như khi mình đi Shopping thấy hàng sale liền bỏ vào kho món hàng đó , sau đó quên mất, nhưng không có nghĩa là không còn món hàng trong kho).Nhưng nếu
quên vì tâm buông xả, không chấp giữ điều gì thì đương nhiên là tốt. 

Dù kho vô thức vẫn còn đó nguyên vẹn những dữ liệu đúng sai tốt xấu v.v... từ vô lượng kiếp nhưng người giác ngộ vẫn thấy như không. Đó mới thật là cái quên tuyệt hảo.

Vậy nên chúng ta chỉ cần buông thư và sáng suốt biết mình là được. Tâm yên như trạng ngủ mà không mê là cách để thân tâm nghỉ ngơi, gọi là tồn tâm dưỡng tánh tự nhiên rất đúng với chánh đạo.

Và cuối cùng xin gửi đến bạn lời dạy của Hoà Thượng Viên Minh mà tôi rất tâm đắc khi đọc được từ câu trả lời trong mục hỏi đáp
“ Nếu con không thấy pháp như nó đang là thì làm thế nào buông được? Buông mà không thấy là si, do đó cần phải thấy mới biết điều gì đáng buông điều gì không cần buông. Nếu không thấy điều gì là "sở đoạn", điều gì "phi sở đoạn" mà cái gì cũng buông thì coi chừng thành biên kiến, chấp không! 
“Vô sự hữu sự, vô ngã hữu ngã gì cũng chỉ cần thấy chứ không lấy, không bỏ điều gì. Đó mới là thái độ buông xả.”

“Kiên trì hay buông tay còn tùy khả năng của con và điều kiện khả thi hay không. Khi cần kiên trì cứ kiên trì, khi cần buông tay cứ buông tay. Điều quan trọng là con có đủ bình tĩnh sáng suốt để học ra điều gì trong đó không thôi. Đừng nhìn một phía, cần thấy nhiều mặt để linh hoạt, uyển chuyển như nước mới không vướng kẹt vào chính ý chí của mình”.

“Tính chất buông xả thì giống nhau, chỉ khác tình huống thôi. Khi hữu sự là buông vọng niệm/tạp niệm/thất niệm để tâm trở về chánh niệm tỉnh giác trên hoạt động hiện tại. Khi vô sự là buông mọi ý đồ tạo tác để tâm trở về bản chất rỗng lặng trong sáng tự nhiên của nó.”
Kính trân trọng tri ân Hoà Thượng đã chỉ dạy, những lời dạy của Ngài đã giúp con tìm ra lối thoát trong những cách ứng xử trong đời mặc dù tuổi đời đã bước sang đông.
Hãy để yên quá khứ như đã được lưu trữ
Là bài học kinh nghiệm ….quý giá vô cùng
Chỉ nên buông bỏ …chấp niệm đóng khung
Và cần nhớ ….
Có những điều lý trí không thể giải đáp
Tuy vậy …
Mỗi mỗi sát na tập luyện chánh niệm tỉnh giác !
Khi hữu sự, vọng niệm tạp niệm …hãy buông
Khi vô sự …nhớ rằng bản chất sáng trong
Niệm niệm thầm …
Nhìn mọi vấn đề một cách linh hoạt !
Uyển chuyển như nước tìm ra sở đoạn, phi sở đoạn!
Hãy biết đặt gánh nặng xuống khi đã mỏi tay
Đừng nương tựa bám víu ai vì muốn cầm hoài
Buông và tuỳ duyên đối trị …mới gọi là sáng suốt !
 
Huệ Hương
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/08/2018(Xem: 7675)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
05/08/2018(Xem: 3556)
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã mấy chục năm theo bốn mùa thay lá thay hoa và đời riêng của mỗi người có quá nhiều đổi thay. Ngồi nhớ lại những kỷ niệm thời còn đi dạy trường Sương Nguyệt Anh, biết bao nhiêu vui buồn lẫn lộn ngập tràn làm xao xuyến cả tâm tư! Hình ảnh buổi lễ bế giảng năm học 1978 bỗng rõ lên trong ký ức tôi như một đóm lửa nhóm trong vườn khuya. Năm đó tôi dạy tới ba bốn lớp 12, lớp thi nên cả Thầy trò mệt nhoài. Không đủ giờ ở lớp nên nhiều khi tôi phải vừa dạy thêm vào sáng Chủ Nhật, vậy mà các em vẫn đi học đầy đủ. Tới ngày bế giảng Cô trò mới tạm hoàn tất chương trình, như trút được gánh nặng ngàn cân ! Hôm đó, tôi lại được Ban Giám Hiệu phân công trông coi trật tự lớp 12C1, có nghĩa là phải quan sát bắt các em ngồi ở sân trường phải yên lặng chăm chú theo dõi chương trình buổi lễ, nghe huấn từ của ban Giám Hiệu.
03/08/2018(Xem: 3512)
ĐA TẠ VÀ TRI ÂN Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông Không hiểu từ bao giờ khi đã bước vào thế giới triết học, khoa học và tôn giáo của Đạo Phật, mặc dù nghe rất nhiều pháp thoại đủ mọi trình độ tôi vẫn không tin có THỜI MẠT PHÁP. Vì sao vậy? Có lẽ lý do tôi biện minh sẽ không được nhiều người chấp nhận, nhưng theo thiển ý của tôi, từ khi nền công nghệ văn minh vi tính hiện đại phát triển, ta không cần chờ đợi một quyển sách được in ra và chờ đợi có phương tiện thích nghi để giữ nó trong tủ sách gia đình, ta vẫn có thể theo dõi qua mạng những bài kinh luật luận được dịch từ tiếng Pali hay Sankrit hoặc những bản Anh Ngữ, Pháp ngữ mà người đọc dù có trình độ học vấn vào mức trung trung vẫn không tài nào hiểu rõ từng lời của bản gốc.
03/08/2018(Xem: 11233)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
29/07/2018(Xem: 3969)
Nhà văn Hoàng Mai Đạt --cũng là Chủ Bút Nhật Báo Viễn Đông -- cho biết số báo ra mắt đã mất nhiều tháng mới làm xong, nhưng hy vọng tương lai sẽ được chư tôn đức Tăng Ni và quý cư sĩ hỗ trợ để thuận lợi cho việc hoằng pháp. Số ra mắt Tinh Tấn Magazine in trên giấy láng, nhiều màu, dày 90 trang, khổ báo tạp chí. Trong số ra mắt Tinh Tấn Magazine, có nhiều bài tập trung chủ đề Quan Thế Âm Bổ Tát hoặc chủ đề từ bi, trong đó có bài: Hạnh Nguyện Cứu Độ Chúng Sanh của Đức Quán Thế Âm (tác giả HT Thích Tịnh Từ);
21/06/2018(Xem: 3457)
Phần này bàn về các cách gọi thời gian như giờ, ngày, tháng trong tiếng Việt vào thời LM de Rhodes sang An Nam truyền đạo. Tài liệu tham khảo chính của bài viết là các tác phẩm Nôm của LM Maiorica và Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), Phép Giảng Tám Ngày (PGTN) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
14/06/2018(Xem: 10822)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
09/06/2018(Xem: 6824)
Tóm lược Khác với hầu hết những cộng đồng sắc tộc tại Úc Châu, người Việt đã đến đây thật đông đảo trong một thời gian tương đối ngắn, khi xã hội văn hóa đa nguyên của đất nước định cư nầy hãy còn trong tình trạng non trẻ. Sự hiện diện của một cộng đồng thiểu số Châu Á mà hình dáng bên ngoài dễ nhìn thấy, dễ nhận dạng, đã là một thách đố lớn lao cho giới lãnh đạo chính trị tại Úc, và sự bao dung của công chúng Úc nóí chung.
21/05/2018(Xem: 12790)
Một Cõi Đi Về Thơ & Tạp Bút Tập 3_Thích Phước Thái
10/05/2018(Xem: 4348)
Đó là tên được đặt cho tác phẩm nhiếp ảnh đầu tiên của tôi. Ảnh chụp năm 1993, bằng Máy ảnh Pentax cũ, mua được từ Tòa soạn Báo Khánh Hòa đợt thanh lý, với giá thời điểm đó là 100.000 đồng. Người mẫu: "Con gái rượu" Tịnh Thủy lúc được 2 tuổi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]